Bảo đảm xét xử công bằng cho người bị buộc tội thông qua quy định quyền bào chữa của người bị buộc tội

BẢO ĐẢM XÉT XỬ CÔNG BẰNG CHO NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI...  
THÔNG QUA QUY ĐỊNH QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI  
NGUYỄN TRẦN NHƯ KHUÊ*  
Bài viết phân tích nội dung quyền bào chữa của người bị buộc tội. Đồng thời, trên cơ  
sở đó, tác giả đưa ra một số vướng mắc và kiến nghị nhằm bảo đảm quyền của người bị  
buộc tội được xét xử công bằng thông qua quy định quyền bào chữa của người bị buộc tội  
trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam.  
Từ khóa: Quyền được xét xử công bằng, người bị buộc tội, quyền bào chữa của người  
bị buộc tội.  
Ngày nhận bài: 17/9/2020; Biên tập xong: 20/9/2020; Duyệt đăng: 20/9/2020.  
Thearticleanalyzesthecontentofrighttodefenceofaccusedpersons, thenshortcomings  
and recommendations to ensure right to a fair trial of the accused by the provisions of their  
right to defence in Vietnamese Criminal Procedure Code are pointed out.  
Keywords: Right to a fair trial, accused persons, right to defence of accused persons.  
1. Quyền bào chữa của người bị buộc  
tội trong tố tụng hình sự  
Một là, tự bào chữa: là hình thức người  
bị buộc tội sử dụng sự hiểu biết pháp luật  
của mình đưa ra các ꢀứng cứ, yêu cầu,  
tranh luận tại phiên tòa… để chứng minh  
sự vô tội hoặc làm giảm trách nhiệm hình  
Về mặt nội dung, quyền bào ꢀữa của  
người bị buộc tội trong tố tụng hình sự  
(TTHS) Việt Nam được quy định tại khoản  
4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013: “Người  
bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra,  
truy tố, xét xử có quyền tự bào ꢀữa, nhờ luật  
sư hoặc người khác bào ꢀữa”. Đồng thời,  
quy định này cũng được ghi nhận là một  
nguyên tắc cơ bản theo Điều 16 Bộ luật tố  
tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015: “Người  
bị buộc tội có quyền tự bào ꢀữa, nhờ luật sư  
hoặc người khác bào ꢀữa. Cơ quan, người có  
thẩm quyền tiến hành tố tụng có tráꢀ nhiệm  
2
sự của mình.  
Hai là, nhờ luật sư hoặc người khác  
bào chữa: là hình thức người bị buộc tội  
nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân,  
người đại diện, trợ giúp viên pháp lý bào  
chữa cho họ. Những người này áp dụng  
các quy định của pháp luật để trợ giúp  
pháp lý, chứng minh sự vô tội hoặc làm  
giảm trách nhiệm của người bị buộc tội.  
Trong đó, điểm mới đáng lưu ý tại  
thông báo, giải thíꢀ và bảo đảm ꢀo người bị khoản 2 Điều 72 BLTTHS năm 2015 quy  
định thêm về 02 diện chủ thể người bào  
chữa mới là trợ giúp viên pháp lý (trong  
trường hợp người bị buộc tội thuộc đối  
tượng trợ giúp pháp lý) và người đại diện  
của người bị buộc tội.  
Bên cạnh đó, người bị buộc tội còn  
được hưởng quyền bào chữa chỉ định  
buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ  
quyền bào ꢀữa, quyền và lợi íꢀ hợp pháp của  
họ theo quy định của Bộ luật này.  
Với quy định này, người bị buộc tội  
có thể thực hiện quyền bào ꢀữa dưới 2  
hình thức1:  
1ꢁ Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Giáo  
trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Hồng Đức * ꢀThạc sĩ, Khoa Luật, Học viện Cán bộ Thành phố  
– Hội luật gia Việt Nam, trang 71.  
Hồ Chí Minh  
Số chuyên đề 03 - 2020  
Khoa học Kiểm sát 43  
BẢO ĐẢM XÉT XỬ CÔNG BẰNG CHO NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI...  
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đảm quyền bào chữa của người bị buộc  
tội không được thực hiện  
của họ. Điều đó có nghĩa là nếu không  
có người bào chữa thì luật quy định bào  
chữa bắt buộc cho người bị buộc tội trong  
những trường hợp sau đây theo quy định  
tại Điều 76 BLTTHS năm 2015: bị can, bị  
cáo về tội mà Bộ luật hình sự (BLHS) quy  
định mức cao nhất của khung hình phạt  
là 20 năm, tù chung thân, tử hình; người  
bị buộc tội là người có nhược điểm về  
thể chất mà không tự bào chữa, có nhược  
điểm về tâm thần hoặc dưới 18 tuổi.  
Quyền bào chữa của người bị buộc  
tội còn được bảo đảm thực hiện khi Điều  
16 BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể  
trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm  
quyền tiến hành tố tụng là: thông báo, giải  
thích quyền bào chữa cho người bị buộc  
tội; tôn trọng, xem xét khách quan chứng  
cứ mà người bị buộc tội đưa ra; chỉ định  
người bào chữa đúng pháp luật…  
Như vậy, BLTTHS năm 2015 đã bổ  
sung một số quy định mới tạo điều kiện  
thuận lợi cho người bào chữa tham gia tố  
tụng, đồng thời giúp cho người bị buộc tội  
có vị trí công bằng trong quá trình tranh  
tụng, trong quá trình chứng minh sự vô  
tội hoặc làm giảm trách nhiệm hình sự  
cho mình. Đây chính là tiền đề bảo đảm  
quyền được xét xử công bằng của người  
bị buộc tội.  
-
Điểm g khoản 1 Điều 58, điểm d  
khoản 2 Điều 59, điểm h khoản 2 Điều  
60, điểm g khoản 2 Điều 61 BLTTHS năm  
2015 quy định cho người bị buộc tội được  
quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác  
bào chữa. Điều này có nghĩa là người bào  
chữa có quyền tham gia tố tụng sớm nhất  
từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của  
Cơ quan điều tra (CQĐT), cơ quan được  
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động  
điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm  
2
1
giữ . Trên thực tế, một số người bị buộc tội  
không biết mình có quyền nhờ người bào  
chữa từ lúc nào, phần lớn cho rằng khi ra  
tòa mới được mời người bào chữa. Tương  
tự, theo quy định của BLTTHS năm 2015,  
bị can có quyền đọc, ghi chép bản sao tài  
liệu… liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội,  
3
2
bào chữa ; bị cáo có quyền xem biên bản  
phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ  
4
3
sung vào biên bản phiên tòa . Quy định là  
vậy song đa số bị can, bị cáo không biết  
để thực hiện hoặc cơ quan có thẩm quyền  
cũng không giải thích, tạo điều kiện để bị  
can, bị cáo biết hay thực hiện được quyền  
y.  
-
BLTTHS năm 2015 quy định một  
cách chung chung cho người bào chữa  
được quyền gặp mặt, hỏi người bị buộc tội  
tại điểm a khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm  
2015. Vậy khi gặp và hỏi người bị buộc tội,  
người bào chữa có được quyền ghi biên  
bản và sử dụng làm nguồn của chứng cứ  
không? Trong khi đó, cuộc nói chuyện  
này có thể được xem là nguồn chứng cứ  
để người bào chữa thực hiện bào chữa bảo  
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người  
2. Người bị buộc tội chưa được bảo  
đảm quyền bào chữa  
Số lượng người bào chữa ngày càng  
phát triển cùng những quy định mới đã  
góp phần giúp cho người bị buộc tội được  
có thêm nhiều quyền để bảo đảm quyền  
bào chữa. Tuy nhiên, trên thực tế, việc  
thực hiện quyền này còn có nhiều hạn chế  
dẫn đến việc người bị buộc tội chưa được  
bảo đảm quyền được xét xử công bằng  
thông qua việc thực hiện quyền bào chữa:  
2ꢁ Xem Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.  
3ꢁ Xem điểm i khoản 2 Điều 60 Bộ luật tố tụng hình  
sự năm 2015  
4ꢁ Xem điểm l khoản 2 Điều 61 Bộ luật tố tụng hình  
Thứ nhất, một số quy định nhằm bảo sự năm 2015  
44 Khoa học Kiểm sát  
Số chuyên đề 03 - 2020  
NGUYỄN TRẦN NHƯ KHUÊ  
bị buộc tội. Một khó khăn nữa là những Chính phủ và Quốc hội, Liên đoàn luật  
sư Việt Nam luôn đề nghị bỏ thủ tục cấp  
Giấy chứng nhận người bào chữa, chuyển  
thủ tục phức tạp, tốn nhiều thời gian khi  
người bào chữa muốn gặp bị can, bị cáo  
tại trại tạm giam, tạm giữ.  
sang chế độ đăng ký đối với diện chủ thể  
7
3
người bào chữa” . Chính vì vậy, để nâng  
-
Người bào chữa cũng có quyền  
cao vai trò của người bào chữa, bảo đảm  
quyền của người bị buộc tội, bảo đảm Tòa  
án xét xử công bằng, BLTTHS năm 2015  
quy định điều luật mới hoàn toàn về thủ  
được đọc, ghi chép và sao chụp những tài  
liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc  
5
1
bào chữa từ khi kết thúc điều tra . Tuy  
nhiên, quyền này của người bào chữa đôi  
khi bị “làm khó”, chưa được tạo điều kiện  
để thực hiện từ sớm hoặc đợi tới ngày xét  
xử người bào chữa mới được đọc hồ sơ…  
Thứ hai, thực trạng thủ tục đăng ký  
bào chữa cũng là một trong những bất cập  
làm cho người bị buộc tội bị hạn chế thực  
hiện quyền bào chữa của mình  
tục đăng ký bào chữa (Điều 78 BLTTHS  
8
4
năm 2015) . Tuy nhiên, khoản 2 Điều 72  
BLTTHS năm 2015 quy định diện người  
bào chữa khá rộng nên việc quy định sao  
y chứng thực các giấy tờ liên quan đến  
người bào chữa là không cần thiết, mang  
tính thủ tục hành chính phiền hà.  
Thứ ba, chỉ nói riêng đối với luật sư, số  
lượng luật sư tham gia vào các vụ án hình  
sự vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra  
Việc quy định về thủ tục cấp giấy  
chứng nhận bào chữa theo khoản 4 Điều  
6
2
56 BLTTHS năm 2003 còn rườm rà, phức  
Tính đến năm 2018, cả nước đã thành  
lập 63 Đoàn luật sư tại 63 tỉnh, thành  
phố trực thuộc Trung ương; có tổng số  
12.821 luật sư, hoạt động trong 3.871 tổ  
chức hành nghề luật sư. So với năm 2005  
(12.821/1.883), tỷ lệ luật sư tăng 680% và  
tỷ lệ các tổ chức hành nghề tăng 460%  
(3.871/839). Cả nước hiện có 63 Trung  
tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước với 147  
chi nhánh và 645 Trợ giúp viên pháp lý,  
3.214 người tham gia Trợ giúp pháp lý  
(bao gồm 2.725 cá nhân ký hợp đồng thực  
hiện trợ giúp pháp lý với Trung tâm Trợ  
giúp pháp lý Nhà nước và 245 người của  
tạp, làm hạn chế vai trò bào chữa của  
người bào chữa, ảnh hưởng đến quyền  
lợi nói chung và quyền được xét xử công  
bằng của người bị buộc tội.  
Khắc phục hạn chế này, khi tham  
gia sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003,  
“trong các báo cáo đánh giá thực trạng thi  
hành BLTTHS năm 2003 và kiến nghị gửi  
Ban soạn thảo BLTTHS sửa đổi cũng như  
tại các cuộc gặp với lãnh đạo Nhà nước,  
5ꢁ Xem điểm l khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình  
sự năm 2015.  
6ꢁ Khoản 4 điều 56 BLTTHS năm 2003 quy định: “4.  
Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị  
của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc  
bào chữa, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải  
xem xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ  
thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng  
tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý, trong  
9
5
đó có 1.087 luật sư) .  
Theo thống kê của ngành Kiểm sát  
7
Phan Trung Hoài (2016), Những điểm mới về chế  
nhận thì phải nêu rõ lý do. Đối với trường hợp tạm giữ định bào chữa trong BLTTHS năm 2015, NXB Chính  
người thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được trị Quốc gia, trang 200.  
đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan 8ꢁ Xem Điều 78 BLTTHS năm 2015  
9
đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra phải xem xét, cấp  
Báo cáo kết quả tổng kết việc thực hiện Nghị  
giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc quyết số 49 – NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX)  
bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà  
nêu rõ lý do”.  
Nội ngày 12/11/2019, trang 18.  
Số chuyên đề 03 - 2020  
Khoa học Kiểm sát 45  
BẢO ĐẢM XÉT XỬ CÔNG BẰNG CHO NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI...  
nhân dân, trong năm 2015, Tòa án đã xét đảm tranh tụng của người bị buộc tội.  
xử 59.696 vụ/71.804 vụ đã thụ lý (xét xử  
105.849 bị cáo/128.226 bị cáo Tòa án đã thụ  
lý); năm 2016 đã xét xử 60.496 vụ/71.291  
vụ đã thụ lý (xét xử 101.602 bị cáo/121.239  
3. Kiến nghị sửa đổi chế định liên  
quan người bào chữa, đẩy mạnh tranh  
tụng trong pháp luật tố tụng hình sự  
nhằm bảo đảm cho người bị buộc tội  
bị cáo Tòa án đã thụ lý); năm 2017 đã xét  
được quyền xét xử công bằng  
xử 57.879 vụ/68.362 vụ đã thụ lý (xét xử  
Nhằmkhắc phục nhữngbất cập liênquan  
95.141 bị cáo/114.931 bị cáo Tòa án đã thụ  
đến ꢀế định bào ꢀữa, tác giả kiến nghị:  
lý)10. Mặc dù số lượng xét xử vụ án hình  
sự lớn nhưng đội ngũ luật sư chỉ tham gia  
43.738 vụ án hình sự /178.071 vụ Tòa án đã  
Một là, đơn giản hóa thủ tục đăng ký  
bào chữa  
Ngày nay, ng dụng công nghệ thông  
tin (CNTT) trong hoạt động của cơ quan  
nhà nước, hướng tới phát triển ꢀính phủ  
điện tử (CPĐT) là xu thế tất yếu, là mô  
hình phổ biến của nhiều quốc gia. CPĐT là  
Chính phủ ứng dụng CNTT nhằm nâng cao  
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan  
nhà nước, tăng cường công khai, minh bạch  
thông tin, giảm phiền hà, tham nhũng, tiết  
kiệm chi phí, cung cấp dịch vụ công tốt hơn.  
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã và  
đang thực hiện mạnh mẽ chủ trương ứng  
dụng CNTT nhằm cải cách hành chính,  
hiện đại hóa cơ quan Chính phủ, xây dựng  
một Chính phủ hiệu lực, hiệu quả. Nhiều  
văn bản quy phạm pháp luật đã được ban  
hành nhằm cụ thể hóa chủ trương này: Luật  
Công nghệ thông tin, Nghị định số 64/2007/  
NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ về  
ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan  
nhà nước; Nghị định số 43/2011/NĐ-NP ngày  
13/6/2011 của Chính phủ quy định việc cung  
cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên  
trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin  
điện tử của cơ quan nhà nước; Quyết định  
số 1605/QĐ-TTg ngày 27/8/2010 của Thủ  
tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình  
quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt  
động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-  
2015, Luật An toàn thông tin và Nghị quyết  
số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính  
phủ về CPĐT.  
xét xử/302.592 bị cáo đã xét xử. Riêng năm  
2018, theo báo cáo của 59/63 Đoàn luật sư,  
đội ngũ luật sư Việt Nam tham gia 12.450  
vụ án hình sự, trong đó có 7.395 vụ án hình  
sự chỉ định và 5.055 vụ án hình sự được  
11  
2
khách hàng mời . Trong khi đó, năm 2018  
Tòa án đã xét xử 61.669 vụ/66.994 vụ Tòa  
án đã thụ lý (xét xử 103.574 bị cáo/114.649  
12  
3
bị cáo Tòa án đã thụ lý) . Điều này cho  
thấy vẫn còn một số lượng lớn bị cáo chưa  
được thực hiện quyền bào chữa để bảo  
đảm được xét xử công bằng. Ở nhiều địa  
phương, đặc biệt là các tỉnh miền núi, vùng  
sâu, vùng xa, số lượng luật sư chưa đủ để  
bào chữa trong các vụ án bắt buộc có sự  
tham gia của luật sư (án chỉ định) mà phải  
mời các luật sư ở địa phương khác tham  
gia. Điều này khiến cho nhiều vụ án phải  
tạm hoãn, kéo dài, gây khó khăn cho cơ  
quan tiến hành tố tụng.  
Một số hạn chế nêu trên đã phần nào  
cản trở người bào chữa thực hiện chức  
năng của mình và tác động đến việc bảo  
10ꢁ Báo cáo Tổng kết công tác ngành Kiểm sát các  
năm 2015, năm 2016, năm 2017.  
11ꢁ Báo cáo kết quả tổng kết việc thực hiện Nghị  
quyết số 49 – NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX)  
về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà  
Nội ngày 12/11/2019, trang 16.  
12ꢁ Báo cáo Tổng kết công tác ngành Kiểm sát năm  
2018  
46 Khoa học Kiểm sát  
Số chuyên đề 03 - 2020  
NGUYỄN TRẦN NHƯ KHUÊ  
Do đó, kiến nghị cần ứng dụng CNTT sự tham gia của “người tập sự hành nghề  
vào hoạt động đăng ký bào chữa. Theo đó,  
người bào chữa sẽ thực hiện đăng ký bào  
chữa thông qua mạng internet và thông tin  
này sẽ được kết nối chung đến các Cơ quan  
tiến hành tố tụng. Khi đến làm việc, người  
bào chữa chỉ cần xuất trình các giấy tờ của  
người bào chữa như Thẻ luật sư hoặc giấy  
tờ tùy thân.  
luật sư” trong hoạt động TTHS. Điều này  
sẽ tạo điều kiện ꢀo người tập sự hành  
nghề Luật sư có điều kiện tiếp xúc thực  
tiễn, có kinh nghiệm và hình thành kỹ  
năng tố tụng.  
Ba là, kiến nghị bổ sung quy định cho  
phép người bào chữa được ghi chép lại, ghi  
âm, ghi hình cuộc gặp mặt, hỏi người bị  
buộc tội  
Hai là, kiến nghị bổ sung quy định về  
sự tham gia của “người tập sự hành nghề  
luật sưtrong hoạt động TTHS  
BLTTHS năm 2015 còn quy định một  
cáꢀ ꢀung ꢀung về việc ꢀo người bào  
ꢀữa được quyền gặp mặt, hỏi người bị  
buộc tội tại điểm a khoản 1 Điều 73 BLTTHS  
năm 2015. Vậy khi gặp và hỏi người bị buộc  
tội, người bào ꢀữa có được quyền ghi biên  
bản và sử dụng làm nguồn của ꢀứng cứ  
không? Để giải quyết vấn đề này, tác giả  
kiến nghị bổ sung quy định hoặc có hướng  
dẫn giải thích cho phép người bào chữa  
được ghi chép lại, ghi âm, ghi hình cuộc  
Khoản 3 Điều 14 Luật luật sư năm  
2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy  
định: “Người tập sự hành nghề luật sư được  
giúp luật sư hướng dẫn trong hoạt động nghề  
nghiệp nhưng không được đại diện, bào ꢀữa,  
bảo vệ quyền và lợi íꢀ hợp pháp ꢀo kháꢀ  
hàng tại phiên tòa, không được ký văn bản tư  
vấn pháp luật. Người tập sự hành nghề luật  
sư được đi cùng luật sư hướng dẫn gặp gỡ  
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại,  
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người  
có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án trao đổi giữa người bào chữa và người bị  
hình sự, nguyên đơn, bị đơn và các đương sự  
khác trong vụ việc dân sự, vụ án hành ꢀính  
khi được người đó đồng ý; giúp luật sư hướng  
dẫn nghiên cứu hồ sơ vụ, việc, thu thập tài  
liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ, việc và  
các hoạt động nghề nghiệp khác; được tư vấn  
pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và thực hiện  
các dịꢀ vụ pháp lý khác theo sự phân công  
của Luật sư hướng dẫn khi được kháꢀ hàng  
đồng ý”. Mặc dù Liên đoàn Luật sư Việt  
Nam đã đề xuất bổ sung quy định này  
trong Dự thảo nhưng BLTTHS năm 2015  
vẫn ꢀưa quy định, ꢀưa có hướng dẫn về  
nội dung này13.  
buộc tội nhằm sử dụng làm nguồn chứng  
cứ trong quá trình bào chữa./.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.  
2. Báo cáo kết quả tổng kết việc thực  
hiện Nghị quyết số 49–NQ/TW của Bộ Chính  
trị (khóa IX) về Chiến lược cải cách tư pháp  
đến năm 2020, Hà Nội ngày 12/11/2019.  
3. Báo cáo Tổng kết công tác ngành Kiểm  
sát các năm 2015, năm 2016, năm 2017, năm 2018.  
4. Phan Trung Hoài (2016), Những điểm  
mới về chế định bào chữa trong Bộ luật Tố tụng  
hình sự năm 2015, NXB Chính trị Quốc gia.  
Vì vậy, kiến nghị bổ sung quy định về  
5. Trường Đại học Luật thành phố Hồ  
Chí Minh, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt  
Nam, NXB Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam.  
13  
Phan Trung Hoài (2016), Những điểm mới về ꢀế  
định bào ꢀữa trong BLTTHS năm 2015, NXB Chính  
trị quốc gia, trang 209.  
Số chuyên đề 03 - 2020  
Khoa học Kiểm sát 47  
pdf 5 trang Thùy Anh 5800
Bạn đang xem tài liệu "Bảo đảm xét xử công bằng cho người bị buộc tội thông qua quy định quyền bào chữa của người bị buộc tội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfbao_dam_xet_xu_cong_bang_cho_nguoi_bi_buoc_toi_thong_qua_quy.pdf