Đề cương ôn tập môn Triết học - Câu 2 (Có đáp án)
KTCT- câu 2: Những vấn đề của hệ thống CNTB đương đại
1. Các nấc thang phát triển của CNTB
CNTB là một hình thái kinh tế - xã hội phát triển cao của xã hội loài người, xuất hiện đầu
tiên tại châu Âu phôi thai và phát triển từ trong lòng xã hội phong kiến châu Âu và chính thức
được xác lập như một hình thái xã hội tại Anh và Hà Lan ở thế kỷ thứ 18. Sau cách mạng Pháp
cuối thế kỷ 18 hình thái chính trị của nhà nước tư bản chủ nghĩa dần dần chiếm ưu thế hoàn toàn
tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước của chế độ phong kiến, quý tộc. Và sau này hình
thái chính trị - kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa lan ra khắp châu Âu và thế giới.
Trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa các cá nhân dùng sở hữu tư nhân để tự do kinh
doanh bằng hình thức các công ty tư nhân để thu lợi nhuận thông qua cạnh tranh trong các điều
kiện của thị trường tự do, mọi sự phân chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của các
thành phần tham gia vào quá trình kinh tế,
CNTB phát triển qua hai giai đoạn: CNTB tự do cạnh tranh và CNTB độc quyền mà nấc
thang tột cùng của nó là CNTB độc quyền nhà nước.Trong suốt quá trình phát triển, CNTB cũng
có những mặttích cực đối với phát triển sản xuất: - Sự ra đời của CNTB đã giải phóng loài người
khỏi xã hội phong kiến, đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên,tự túc, tự cấp chuyển sang phát triển
kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa,chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn hiện đại. Dưới tác
động của quy luật giá trị thặng dư và các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa, CNTB đã làm
tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng của cải khổng lồ hơnnhiều xã hội trước cộng lại.
- Phát triển lực lượng sản xuất.
Quá trình phát triển của CNTB đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ với trình độ
kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao: từ kỹ thuật thủ công lên kỹ thuật cơ khí, sang tự động hóa, tin
học hóa và côngnghệ hiện đại. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật vầ công nghệ là quá trình giải
phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả khám phá và chinh phục thiên nhiên của con người.
- Thực hiện xã hội hóa sản xuất.
CNTB đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh và đạt tới mức điển hình nhất
trong lịch sử, cùng với nó là quá trình xã hội hóa sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu. Đó là sự
phát triển của phân công laođộng xã hội, sản xuất tập trung với quy mô hợp lý, chuyên môn hóa
sản xuấtvà hợp tác lao động sâu sắc, mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị, các ngành,các lĩnh vực
ngày càng chặt chẽ... làm cho các quá trình sản xuất phân tán được liên kết với nhau và phụ
thuộc lẫn nhau thành một hệ thống, thành mộtquá trình sản xuất xã hội. - CNTB thông qua cuộc
cách mạng công nghiệp, lần đầu tiêntổ chức lao động theo kiểu công xưởng, đó đó xây dựng
được tác phongcông nghiệp cho người lao động, làm thay đổi nề nếp thói quen của ngườilao
động sản xuất nhỏ trong xã hội phong kiến. - CNTB lần đầu tiên trong lịch sử thiết lập nên nền
dân chủ tư sản, tiến bộ hơn rất nhiều so với thể chế chính trị phong kiến.
Những hạn chế:
1
Bên cạnh mặt tích cực nói trên, trong quá trình phát triển, CNTB cũng có những hạn chế về
lịch sử: - Lịch sử ra đời của CNTB gắn với quá trình tích lũy nguyên thủy nên ngay từ đầu đã thể
hiện bản chất bóc lột và chiếm đoạt những người sản xuất nhỏ và nông dân tự do.
- Cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của CNTB là quan hệ bóc lột, do đó tất yếu làm cho bất
bình đẳng, phân hóa xã hội ngày càng gay gắt.
- Các cuộc chiến tranh đế quốc tranh giành thị trường dẫn đến những hậu quả nặng nề cho
sự phát triển của xã hội loài người.
- CNTB phải chịu trách nhiệm chính trong việc tạo ra hố sâu ngăn cách giữa các nước giàu,
nghèo trên thế giới.
- Trong xã hội tư bản ngày nay, sự bất bình đẳng và các tệ nạn xã hội vẫn tồn tại một cách
phổ biến: sự suy đồi về xã hội, văn hoá và đạo đức ngày càng trầm trọng.
Cơ chế vận hành
Kinh tế thị trường TBCN là nền kinh tế tự do theo chế độ cung cầu không phải chịu sự chi
phối của chính phủ. Điển hình của nền kinh tế này là Anh, Pháp... .
Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác
động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên
thị trường. Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng
cung, thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng
lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn, thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao
hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người
sản xuất hiệu quả. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận
thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải.
Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường TBCN có thể dẫn tới bất bình đẳng.
Đấy là chưa kể vấn đề thông tin không hoàn hảo có thể dẫn tới việc phân bổ nguồn lực không
hiệu quả. Do một số nguyên nhân, giá cả có thể không linh hoạt trong các khoảng thời gian ngắn
hạn khiến cho việc điều chỉnh cung cầu không suôn sẻ, dẫn tới khoảng cách giữa tổng cung và
tổng cầu. Đây là nguyên nhân của các hiện tượng thất nghiệp, lạm phát.
Trong thực tế hiện nay, không có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo, cũng như không có
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (trừ nền kinh tế Bắc Triều Tiên). Thay vào đó là
nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà các yếu tố thị trường nhiều hay ít.
Trong thương mại quốc tế, mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể được sử dụng làm tiêu chí
trong xác định điều kiện thương mại của mỗi nước.
Nền KT TBCN vận hành theo cơ chế thị trường
Thứ nhất, về chế độ sở hữu: Cơ chế thị trường trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa luôn hoạt
động trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công ty tư bản độc quyền giữ
vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Thứ hai, về tính giai cấp của Nhà nước và mục đích quản lý của Nhà nước: Trong cơ chế thị
trường tư bản chủ nghĩa, sự can thiệp của Nhà nước luôn mang tính chất tư sản và trong khuôn khổ
2
của chế độ tư sản với mục đích nhằm bảo đảm môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự thống
trị của giai cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa.
Thứ ba, về mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã hội: Trong sự
phát triển của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, vấn đề công bằng xã hội chỉ được đặt ra khi mặt
trái của cơ chế thị trường đã làm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo ra nguy cơ bùng nổ xã hội, đe dọa
sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Song, vấn đề đó không bao giờ và không thể nào giải quyết được
triệt để trong chế độ tư bản. Mục đích giải quyết các vấn đề xã hội của các chính phủ tư sản chỉ
giới hạn trong khuôn khổ tư bản chủ nghĩa, chỉ được xem là phương tiện để duy trì chế độ tư bản
chủ nghĩa.
VĐ2 : 5 đặc điểm của CNTB độc quyền- Những biểu hiện
1. Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền
a. Sự tập trung sản xuất: là quá trình thay thế các xí nghiệp nhỏ, bố trí phân tán bằng cách xí
nghiệp lớn có đông công nhân và làm ra một khốI lượng sản phẩm lớn. Chính sự tích tụ và tập
trung tư bản đã dẫn tớI sự tích tụ và tập trung sản xuất.
Nguyên nhân cụ thể:
+ Đầu thế kỉ 20 trong các nước tư bản sự cạnh tranh diễn ra hết sức gay gắt dẫn đến:
- 1 số nhà tư bản có ưu thế về vốn và kĩ thuật chiến thắng và thôn tính các xí nghiệp nhỏ
- Xuất hiện xu thế thành lập các công ty cổ phần
+ Đầu thế kỉ 20 do KHKT phát triển nên đòi hỏI vốn lớn để ứng dụng được vào sản xuất
+ Trong khủng hoảng kinh tế chỉ những xí nghiệp lớn đủ khả năng tồn tại
+ Sự phát triển hệ thống tín dụng tạo điều kiện cho tập trung sản xuất
Sự tập trung sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định sẽ làm hình thành các tổ chức độc
quyền – liên minh giữa các nhà tư bản để nắm phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ 1 số loạI hàng
hóa nào đó nhằm thu lợI nhuận cao.
Các hình thức tập trung sản xuất: công ti cổ phần và xí nghiệp liên hiệp
b. Các tổ chức độc quyền
Các hình thức tổ chức độc quyền cơ bản: cartel, syndicate, trust, consortium
Độc quyền và cạnh tranh là 2 mặt trái ngược nhau song ở các nước đế quốc khi xuất hiện các tổ
chức độc quyền thì không thủ tiêu được cạnh tranh mà lạI làm cạnh tranh gay gắt hơn
- Sự tồn tạI của các tổ chức độc quyền vẫn dựa trên cơ sở của chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
- Ở các nước ĐQ vẫn còn tồn tại các xí nghiệp nhỏ chưa bị thôn tính vào các tổ chức độc quyền
- Trong các nước đế quốc vẫn còn sản xuất hàng hóa của nông dân và thợ thủ công
3 loạI cạnh tranh trong chủ nghĩa đế quốc: giữa các tổ chức độc quyền vớI nhau, giữa các tổ chức
độc quyền với các xí nghiệp ngoài độc quyền, và ngay trong nộI bộ từng tổ chức độc quyền
2. Tư bản tài chính và đầu sỏ tài chính
a. Vai trò mới của tư bản ngân hàng
Trong giai đoạn CNTB độc quyền, khi trong công nghiệp diễn ra tích tụ và tập trung sản xuất thì
3
trong ngân hàng cũng có tích tụ và tập trung tư bản, làm hình thành nên các ngân hàng lớn cạnh
tranh vớI nhau – các tổ chức độc quyền trong ngân hàng. Do nắm được lượng tư bản tiền tệ lớn,
các ngân hàng có khả năng chi phốI nhiều họat động kinh tế-xã hội.
b. Tư bản tài chính
Tư bản tài chính là một loạI tư bản được hình thành trên cơ sở sự xâm nhập lẫn nhau giữa tư bản
công nghiệp và tư bản ngân hàng. Tư bản ngân hàng vớI vai trò và địa vị mớI của mình, đã cử
ngườI tham gia vào các tổ chức độc quyền công nghiệp để theo dõi việc sử dụng vốn vay. Để
hạn chế sự chi phốI của ngân hàng, các nhà tư bản công nghiệp cũng can thiệp vào họat động của
tư bản ngân hàng bằng cách mua cổ phiếu hoặc thành lập ngân hàng cho riêng mình. 2 quá trình
thâm nhập ấy gắn kết vớI nhau, làm cho tư bản công nghiệp và tư bản ngân hàng dần trở nên
đồng nhất vớI nhau, hình thành nên tư bản tài chính. Các nhóm tư bản tài chính có tiềm lực đủ
mạnh trở thành các đầu sỏ tài chính ( hay còn gọI là tài phiệt ), thực hiện thao túng đờI sống kinh
tê- chính trị ở các nước tư bản.
3. Xuất khẩu tư bản
a. Xuất khẩu hàng hóa
Xuất khẩu hàng hóa là thủ đoạn để các nước tư bản tiến hành bóc lột các nước chậm phát triển
thông qua trao đổI không ngang giá
b. Xuất khẩu tư bản
Xuất khẩu tư bản cũng là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài nhưng được tiến hành dướI hình thức
đầu tư tư bản ra nước ngoài để bóc lột giá trị thặng dư và một số nguồn lợI khác ở các nước nhập
khẩu tư bản. Đây thực chất là công cụ để các tập đoàn tư bản bóc lột các nước chậm phát triển.
Xuất khẩu tư bản là một tất yếu trong thờI kì CNTB độc quyền vì:
Đầu thế kỉ 20 một số nước tư bản đã tích lũy được một lượng vốn khổng lồ mà nếu đầu tư trong
nước thì sẽ thu được lợI nhuận ít hơn so vớI nếu đầu tư ở nước ngoài
Các nước lạc hậu về kinh tế thì thiếu vốn nhưng giá nhân công thấp và nguyên liệu lạI dồI dào
Các nước tương đốI phát triển có nhu cầu về vốn để đổI mớI trang thiết bị kĩ thuật
Những hình thức xuất khẩu tư bản:
- Xuất khẩu tư bản sản xuất: nước xuất khẩu tư bản đầu tư vốn để xây mớI hoặc mua lạI xí
nghiệp, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
- Xuất khẩu tư bản cho vay: nước xuất khẩu tư bản cho chính phủ hoặc tư nhân vay tiền hoặc
hàng hóa, vật tư
4. Sự phân chia thế giớI về kinh tế
Trong thờI kì tư bản tự do cạnh tranh, lượng hàng hóa sản xuất ra chưa lớn. Song đến thờI CNTB
độc quyền, lượng hàng hóa được sản xuất đã tăng chóng mặt, làm nảy sinh nhu cầu về thị trường
và nguyên liệu ngoài nước. Mặt khác, hàng hóa đem bán ở nước ngoài thu được lợI nhuận lớn hơn
so vớI hàng hóa đem bán trong nước. Do tầm quan trọng của thị trường bên ngoài, giữa các nước
đế quốc diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt để giành giật thị trường thế giớI, hình thành nên những
thỏa thuận có tính chất lũng đoạn giữa các tổ chức độc quyền trong việc sản xuất và tiêu thụ một số
4
loạI hàng hóa, tạo nên những tổ chức độc quyền quốc tế - liên minh giữa các tổ chức độc quyền lớn
của các nước để phân chia thị trường thế giớI, độc chiếm nguồn nguyên liệu, quy định quy mô sản
xuất của từng tổ chức, định ra giá cả độc quyền nhằm thu lợI nhuận độc quyền cao.
5. Sự phân chia thế giớI về lãnh thổ
Sự phân chia thế giớI về mặt lãnh thổ là hệ quả tất yếu của sự phân chia thế giớI về kinh tế, biểu
hiện ở việc các nước đế quốc xâm chiếm và thuộc địa hóa những nước chậm phát triển hòng độc
chiếm nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ hàng hóa và địa điểm lập căn cứ quân sự.
Quá trình phát triển của CNTB ở các nước nói chung diễn ra không đều; có những nước tư bản
ra đờI sau nhưng kinh tế lạI phát triển vượt bậc, muốn đấu tranh để phân chia lạI thế giới.
Phương pháp phổ biến là chiến tranh.
3. Nguyên nhân hình thành CNTB độc quyền
- Hình thành các tổ chức độc quyền lớn đòi hỏi vai trò điều tiết của nhà nước- một chế độ
mạnh về chính trị và kinh tế, tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất càng cao càng đòi hỏi
sự quản trị từ trung tâm- đó là Nhà nước.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất và ứng dụng các thành tựu khoa học- công nghệ vào
nền kinh tế đòi hỏi nguồn đầu tư công khổng lồ của Nhà nước.
- Nhu cầu về nhiều loại hình dịch vụ công đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân
trong điều kiện xã hội dân chủ với mức sống cao. Nhà nước là chủ thể quản trị công phải đảm
nhận các chức năng này.
- Nhà nước là chủ thể chính trị, pháp lý quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp
quốc tế. Nhà nước đứng trên lợi ích dân tộc, quốc gia để thực hiện quan hệ quốc tế.
4. Bản chất:
CNTB độc quyền nhà nước là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, biểu hiện quá trình dung hòa hai thế lực tổ chức độc quyền và bộ máy nhà nước tư sản
nhằm tạo ra một cơ chế thống nhất hữu cơ gắn bó lợi ích kinh tế lẫn chính trị giữa hai thế lực để
bảo vệ lợi ích của mình và sự tồn tại của chế độ tư bản.
CNTBDQNN là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, nó thể
hiện mức độ phát triển cao hơn của giai đoạn CNTB độc quyền.
Sự kết hợp của nhà nước tư sản với các tổ chức độc quyền bao trùm rộng rãi trong mọi
lĩnh vực đời sống xã hội của các nước tư bản.
5. Những biểu hiện chính của CNTB ĐQNN
a.Sự dung hợp của các tổ chức độc quyền và nhà nước tư sản
Sự dung hợp này diễn ra ở hai phương diện chính: nhân sự và chính sách.
Thứ nhất, các tổ chức độc quyền cũng tìm mọi cách để cài người của mình vào bộ máy nhà
nước tư bản bằng nhiều cách, chẳng hạn tranh cử vào các vị trí của bộ máy nhà nước, tài trợ cho
các thành viên đảng chính trị là thành viên nội các chính phủ, mua chuộc và tranh thủ ý kiến.
Thứ 2, Nhà nước tư sản cũng cử người nắm giữ các chức vụ quan trọng trong các tổ chức
độc quyền lớn dưới nhiều hình thức.
5
Theo phương diện quy hoạch chính sách, các tổ chức độc quyền luôn luôn tìm mọi cách
(bằng tiền, sức ép tập thể, vận động nghị sỹ quốc hội) để gây sức ép lên chính phủ trong soạn
thảo những chính sách có lợi hơn cho mình trong khuôn khổ pháp luật cho phép, đề xuất những
sửa đổi luật, đề xuất các dự án quan trọng phát triển kinh tế-xã hội.
b.Nhà nước trực tiếp thực hiện điều tiết kinh tế
Hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước tư bản là tổng thể những thiết chế, công cụ và
chính sách kinh tế nhà nước.
Một là, hệ thống pháp luật và bộ máy thực thi pháp luật
Hai là, nguồn lực kinh tế nhà nước.
Ba là, kế hoạch hóa nền kinh tế.
Bốn là, hệ thống chính sách kinh tế.
c.Hình thành và phát triển của khu vực của kinh tế nhà nước
Sự hình thành khu vực kinh tế nhà nước là kết quả tất yếu khi sự điều tiết của nhà nước vào
kinh tế trở thành phổ biến và rộng khắp trong các nền kinh tế quốc dân. Một mặt, chính nhà nước
cần có thực lực kinh tế mạnh, đủ sức thâu tóm kiểm soát nền kinh tế, do đó khu vực kinh tế nhà
nước không thể thiếu. Mặt khác, khu vực kinh tế thực sự cần thiết để cung cấp một số hàng hóa
và dịch vụ mà khu vực tư nhân không muốn cung cấp không đầy đủ theo tín hiệu thị trường.
6. Xu hướng vận động của CNTB
Những thành tựu và hạn chế của CNTB bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ bản của CNTB: mâu thuẫn
giữa tính chất và trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sở hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. CNTB càng phát triển thì xã hội hóa sản xuất ngày càng cao,
quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. CNTB đã thực hiện nhiều biện pháp điều chỉnh cả về
mặt sở hữu, quản lý và phân phối để hạn chế mâu thuẫn trên nhưng về cơ bản không thủ tiêu
được mâu thuẫn này. Sự điều chỉnh ấy vẫn không vượt qua khỏi khuôn khổ của sở hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa. CNTB nhất định sẽ bị phá vỡ và thay vào đó là một quan hệ sở hữu mới để đáp
ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến sự ra đời tất yếu của phương thức sản
xuất mới – phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Phương thức sản xuất TBCN không thể tự tiêu vong và phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa
cũng không thể tự hình thành mà chỉ có thể thực hiện được thông qua cuộc cách mạng xã hội
trong đó giai cấp công nhân là người có sứ mệnh lịch sử thực hiện cuộc cách mạng này.
Từ khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đến nay, chủ nghĩa tự do mới và
phương thức chính sách mà các quốc gia phương Tây nắm vai trò chủ đạo trong 30 năm
qua trở thành đối tượng bị công kích.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng đang lan rộng hiện nay đã làm nổi cộm một quan điểm, đó là hệ
thống này không chỉ là vấn đề chính sách tự do mới, mà còn thể hiện rõ vấn đề của hệ thống tư
bản. Hiểu được những khiếm khuyết của hệ thống này cũng là một tiền đề để hiểu phương hướng
và không gian thay đổi CNTB trong tương lai.
6
* Hệ thống tư bản chủ nghĩa là một hệ thống cạnh tranh, kiểm soát và biến hóa
Sự cần thiết của cạnh tranh và tích lũy là động lực thúc đẩy nền sản xuất tư bản không ngừng
phát triển. Giống như vậy, khủng hoảng kinh tế của CNTB cũng là sự phản ánh của vấn đề cơ
chế giữa cạnh tranh và tích lũy. Quan hệ giữa kiểm soát và bị kiểm soát là nhân tố quan trọng
trong quan hệ sản xuất tư bản. Sự cần thiết của cạnh tranh và tích lũy đã thúc đẩy sự không
ngừng cải cách và đổi mới của CNTB, Điều này vừa bao gồm sáng tạo kỹ thuật vừa bao gồm đổi
mới về xã hội. Tóm lại, là một chế độ xã hội, phương hướng phát triển và không gian thay đổi
của CNTB được quyết định bởi trạng thái và không gian vận hành của cơ chế cạnh tranh, cơ chế
kiểm soát và cơ chế đổi mới.
* Khủng hoảng tài chính là hệ quả tất yếu do những khiếm khuyết của hệ thống vốn có
Cuộc khủng hoảng lần này có thể được xem là khiếm khuyết của hệ thống vốn có và một hệ quả
tất yếu do các mâu thuẫn tích tụ.
Hệ thống vốn có ở đây chỉ hệ thống tư bản chủ nghĩa sau Đại chiến thế giới thứ hai được phát
triển và hình thành từ thập niên 40 của thế kỷ XX. Từ sau khi kết thúc cuộc đại chiến này đến
đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, CNTB đã trải qua “thời kỳ hoàng kim” với nền kinh tế tăng
trưởng nhanh và xã hội phồn vinh. Thời kỳ này xuất hiện trên cơ sở sự thay đổi từ ba phương
diện của một hệ thống: về cơ chế cạnh tranh và tích lũy, phương diện quốc tế, hệ thống kiểm soát
kinh tế quốc tế , về mặt thực hiện chính sách, đối mặt với thế mạnh đó của chủ nghĩa tự do mới.
Có thể thấy, chính sách của chủ nghĩa tự do mới tuy là nguyên nhân trực tiếp gây ra cuộc khủng
hoảng tài chính quốc tế năm 2008, nhưng vấn đề cơ bản do những khiếm khuyết của hệ thống
CNTB truyền thống chưa được khắc phục hiệu quả trong thời đại toàn cầu hóa mới. Hiện nay, sự
lan rộng của cuộc khủng hoảng đã thể hiện rõ việc này.
* Khủng hoảng có thể trở thành liều thuốc kích thích cải cách hệ thống tư bản chủ nghĩa,
nhưng triển vọng cũng chưa lạc quan
CNTB trong thời đại hậu khủng hoảng tài chính phải thực sự thoát khỏi bóng đen khủng hoảng,
cần xây dựng lại mô hình tích lũy cạnh tranh, hệ thống điều hành và hệ thống đổi mới. về mặt
logic, việc xây dựng lại không nên trên cơ sở khái niệm nhà nước truyền thống, mà nên trên cơ
sở sự cân bằng giữa toàn cầu, quốc gia và xã hội. Hơn nữa, sự lan rộng và ngày càng trở nên sâu
sắc của cuộc khủng hoảng hiện nay có thể trở thành liều thuốc kích thích cải cách hệ thống tư
bản chủ nghĩa, nhưng tương lai cũng chưa chắc đã sáng sủa.
Trong cuộc khủng hoảng hiện nay, một mặt, người ta quan tâm đến việc làm thế nào để ngăn
chặn sự lan rộng của cuộc khủng hoảng và phục hồi kinh tế. Mặt khác, họ mong muốn khắc phục
những khiếm khuyết của hệ thống hoặc xây dựng một hệ thống mới. Việc khôi phục kinh tế phải
thực hiện trong một thời gian dài, có thể thực hiện được, nhưng khắc phục những khiếm khuyết
của hệ thống tư bản chủ nghĩa chắc chắn khó hơn nhiều.
Vai trò của CNTB được thể hiện:
- Làm dịu mâu thuẫn kinh tế-xã hội
7
Nhà nước tư sản đóng vai trò quan trọng trong điều chỉnh các mâu thuân kinh tế-xã hội tư
bản, làm giảm nhẹ các chu kỳ kinh tế, hạn chế được tình trạng vô chính phủ và lạm phát.
Nhà nước tư sản đã làm giảm bớt căng thẳng trong một số mâu thuẫn xã hội tư bản và lao
động bằng nhiều chính sách điều tiết (thuế, giá cả, thu nhập, việc làm, bảo hiểm...)
Nhà nước tư bản góp phần xúc tiến hợp tác với nhau để giải quyết nhiều mâu thuẫn liên
quan tới các nước tư bản, giữa các nước tư bản với các nước thế giới thứ ba.
- Chuẩn bị cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội
Theo V.I. Leenin, CNTB chuẩn bị cơ sở vật chất và kỹ thuật cho một phương thức sản xuất
mới cao hơn chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn CNTBĐQNN, tiềm lực kinh tế và nền tảng khoa học công nghệ cho quá
trình tái sản xuất tư bản ngày càng phát triển mạnh mẽ và sâu sắc hơn.
Tóm lại, phải đánh giá CNTB trong thời đại hậu khủng hoảng tài chính từ ý nghĩa cải
cách hệ thống tư bản chủ nghĩa, chứ không đơn thuần chỉ dừng lại ở sự chỉ trích chủ nghĩa
tự do mới. Nhìn nhận từ góc độ biến đổi, cuộc khủng hoảng là hệ quả của khiếm khuyết hệ
thống vốn có, nhưng cũng có thể trở thành điểm khởi đầu thúc đẩy cải cách hệ thống này,
cho dù tương lai không thể lạc quan./.
8
Bạn đang xem tài liệu "Đề cương ôn tập môn Triết học - Câu 2 (Có đáp án)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- de_cuong_on_tap_mon_tiet_hoc_cau_2_co_dap_an.doc