Chính sách quản lý, sử dụng đất nông nghiệp nhằm khuyến khích tập trung, tích tụ đất đai trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Chuyên đề  
CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP  
NHẰM KHUYẾN KHÍCH TẬP TRUNG, TÍCH TỤ ĐẤT ĐAI TRONG BỐI  
CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC  
PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến1  
Tóm tắt: Chuyên đề đi sâu phân tích, đánh giá chính sách quản lý, sử dụng  
đất nông nghiệp để nhận diện những rào cản đối với quá trình tích tụ, tập trung đất  
đai. Trên cơ sở đó, chuyên đề đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách quản lý, sử  
dụng đất nông nghiệp góp phần khuyến khích tích tụ, tập trung đất đai nhằm đáp ứng  
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước.  
Từ khóa: Chính sách; quản lý, sử dụng; đất nông nghiệp; tích tụ, tập trung  
đất đai; công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước v.v.  
Đặt vấn đề  
Với một quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới như Việt Nam thì đất nông  
nghiệp có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt về chính trị, kinh tế, xã hội. Kể từ khi ra  
đời (ngày 03/02/1930) đến nay, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn luôn  
chiếm vị trí trung tâm trong các quan điểm, đường lối thể hiện trong các văn kiện,  
nghị quyết của Đảng. Thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước xây  
dựng, ban hành chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp. Đất nông  
nghiệp là một chế định chủ yếu, quan trọng của các đạo Luật Đất đai năm 1987, Luật  
Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản  
hướng dẫn thi hành. Chính sách, pháp luật về đất nông nghiệp góp phần quan trọng  
vào việc thực hiện mục tiêu của cách mạng qua từng giai đoạn và đóng góp vào những  
thành tựu nổi bật của thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện  
công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, ngành nông nghiệp nước ta đứng trước những  
thách thức vô cùng to lớn mà điều dễ nhận thấy là năng suất lao động thấp khiến giá  
thành nông sản cao khó cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các nước trong khu  
1 Phó Chủ tịch Hội đồng Trường kiêm Trưởng Khoa Pháp luật Kinh tế - Trường Đại học Luật Hà Nội; email:  
63  
vực. Mặt khác, quá trình xây dựng nông thôn mới, CNH-HĐH nông nghiệp gặp nhiều  
khó khăn do tình trạng ruộng đất canh tác manh mún; quy mô sản xuất của hộ gia  
đình còn nhỏ lẻ … Điều này có nguyên nhân từ chính sách, pháp luật về đất nông  
nghiệp chưa phù hợp hoặc bất cập trước yêu cầu của tích tụ, tập trung ruộng đất nhằm  
đẩy mạnh quá trình CNH-HĐH phấn đấu “Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển,  
thu nhập cao2.  
Chuyên đề này nghiên cứu về chính sách quản lý, sử dụng đất nông nghiệp  
nhằm khuyến khích tích tụ, tập trung đất đai trong bối cảnh CNH-HĐH đất nước. Nội  
dung của chuyên đề bao gồm:  
- Phân tích, đánh giá thực trạng sử dụng đất nông nghiệp manh mún và rào cản  
đối với doanh nghiệp trong tiếp cận đất nông nghiệp tham chiếu từ góc độ chính sách,  
pháp luật.  
- Đánh giá một số chính sách chủ yếu về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp.  
- Đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách quản lý, sử dụng đất nông  
nghiệp nhằm khuyến khích tích tụ, tập trung đất đai trong bối cảnh CNH-HĐH đất  
nước.  
1. Thực trạng sử dụng đất nông nghiệp manh mún và rào cản đối với  
doanh nghiệp trong tiếp cận đất nông nghiệp tham chiếu từ góc độ chính sách,  
pháp luật  
1.1. Thực trạng sử dụng đất nông nghiệp manh mún hiện nay  
Theo thống kê năm 2013, tổng diện tích đất nông nghiệp của nước ta là  
262.805 km2 (chiếm tới 79,4%) bao gồm đất sản xuất nông nghiệp là 101.511 km2,  
đất lâm nghiệp là 153.731 km2, đất nuôi trồng thuỷ sản là 7.120 km2. Việt Nam có 8  
vùng đất nông nghiệp gồm: Đồng bằng sông Hồng, Đông Bắc bộ, Tây Bắc bộ, Bắc  
Trung bộ, Duyên hải Nam Trung bộ, Tây Nguyên, Đông Nam bộ và đồng bằng sông  
Cửu Long (ĐBSCL). Mỗi vùng đều có đặc trưng cây trồng rất đa dạng. Trong đó,  
ĐBSCL chủ yếu là lúa; Tây Nguyên là cà phê, rau, hoa, trà; miền Đông Nam bộ là  
2
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị  
quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 36.  
64  
cao su, mía, bắp, điều… Đất nông nghiệp hiện được chia thành 4 loại: Đất trồng cây  
hàng năm, đất trồng cây lâu năm (không bao gồm cây lâm nghiệp, cây công nghiệp  
lâu năm trồng xen, trồng kết hợp), đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất có mặt nước  
dùng vào sản xuất nông nghiệp gồm các loại ao, hồ, sông cụt ... để nuôi trồng các loại  
thuỷ sản (không tính hồ, kênh, mương, máng thuỷ lợi). Đất nông nghiệp ở nước ta  
phân bố không đồng đều giữa các vùng trong cả nước. Vùng Đồng bằng Sông Cửu  
Long có tỷ trọng đất nông nghiệp trong tổng diện tích đất tự nhiên lớn nhất cả nước,  
chiếm 67,1% diện tích toàn vùng và vùng đất nông nghiệp. Ít nhất là vùng Duyên hải  
miền Trung. Đất nông nghiệp chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của đất tại các vùng nên độ  
phì và độ màu mỡ của đất nông nghiệp giữa các vùng cũng khác nhau. Đồng bằng  
Sông Hồng với Đồng bằng Sông Cửu Long, đất đai ở hai vùng này được bồi tụ phù  
sa thường xuyên nên rất màu mỡ, mỗi năm đất phù sa bồi tụ ở Đồng bằng Sông Cửu  
Long thêm 80m. Vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ phần lớn là đất bazan. Tuy  
nhiên, Việt Nam là một trong những quốc gia có mức độ phân mảnh đất đai cao nhất  
so với khu vực và thế giới. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp bình quân đầu người  
trên thế giới là 0,52ha, trong khu vực là 0,36ha thì ở Việt Nam là 0,25ha. Sau mỗi  
chu kỳ hai chục năm, tình trạng phân mảnh tăng gấp đôi. Sự phân mảnh còn dẫn đến  
tình trạng lãng phí đất đai được sử dụng làm ranh giới, bờ bao. Con số này không  
dưới 4% diện tích canh tác. Quỹ đất nông nghiệp tiếp tục suy giảm do công nghiệp  
hóa và đô thị hóa. Theo số liệu của Tổng cục Quản lý đất (Bộ Tài nguyên và Môi  
trường), bình quân mỗi năm đất nông nghiệp giảm gần 100 nghìn hécta, đặc biệt năm  
2007 giảm 120 nghìn hécta, trong khi mỗi năm số lao động bước ra khỏi ruộng đồng  
chỉ vào khoảng 400 ngàn người. Hơn nữa, mức gia tăng dân số ở nông thôn không  
giảm nhiều như mong đợi, khiến cho bình quân đất canh tác trên đầu người ngày càng  
giảm mạnh3. Như vậy, phát triển nông nghiệp quy mô nhỏ trong những năm qua đang  
làm cho đất đai bị khai thác cạn kiệt, chi phí sản xuất cao, khó áp dụng tiến bộ khoa  
học kỹ thuật. Do đó, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng quy  
mô lớn và hiện đại đang thúc đẩy việc tích tụ, tập trung ruộng đất. Nhờ đó, các hình  
thức mang tính thương mại như chuyển nhượng, cho thuê quyền sử dụng đất được  
3 Huy Thông (2015), Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại Việt Nam còn thấp, Nguồn: Trang Thông tin điện  
tử của Hội Nông dân Việt Nam - Môi trường nông thôn, ngày 14:00 - 25/08  
65  
xem là những giao dịch mở đầu cho việc phát triển thị trường quyền sử dụng đất nông  
nghiệp ở nước ta.  
1.2. Nguyên nhân của thực trạng sử dụng đất nông nghiệp manh mún tham  
chiếu từ góc độ chính sách, pháp luật đất đai  
Thực trạng sử dụng đất nông nghiệp phân tán, manh mún hiện nay (đặc biệt ở  
khu vực đồng bằng sông Hồng và các tỉnh thuộc khu IV cũ)4 có nhiều nguyên nhân;  
trong đó có nguyên nhân từ chính sách, pháp luật đất đai; cụ thể:  
Thứ nhất, Nghị định số 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ ban hành Bản  
quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu  
dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp (sau đây gọi là Nghị định số 64/CP) quy định  
một trong các nguyên tắc của việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử  
dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp là : “Trên cơ sở hiện trạng, bảo đảm đoàn  
kết, ổn định nông thôn, thúc đẩy sản xuất phát triển; thực hiện chính sách bảo đảm  
cho người làm nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản có đất sản xuất”5. Nguyên tắc này  
nhằm đảm bảo tránh sự xáo trộn quá lớn trong sử dụng đất nông nghiệp và duy trì sự  
ổn định đoàn kết ở khu vực nông thôn; bởi lẽ, đất đai ở nước ta là vấn đề nhạy cảm  
ảnh hưởng trực tiếp đến chính trị, kinh tế, xã hội. Quán triệt nguyên tắc này, các địa  
phương thực hiện việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng vào  
mục đích sản xuất nông nghiệp theo phương châm bình quân và “có gần, có xa, có  
tốt, có xấu”. Có nghĩa là đất nông nghiệp được giao cho hộ gia đình, cá nhân đều  
nhau tính theo định mức/nhân khẩu nông nghiệp. Ở thời điểm đó, giao đất nông  
nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp theo  
nguyên tắc này là hợp lý không gây ra xáo trộn quá lớn đối với việc sử dụng đất nông  
nghiệp và duy trì được sự đoàn kết ổn định ở nông thôn. Tuy nhiên, hiện nay tính  
chất, trình độ phát triển của sản xuất nông nghiệp nước ta đã phát triển mạnh mẽ,  
từng bước tiếp cận với nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa thì tình trạng sử dụng đất  
nông nghiệp manh mún theo từng hộ gia đình, cá nhân (trung bình mỗi hộ gia đình ở  
Đồng bằng sông Hồng có từ 5 - 7 mảnh đất nằm ở các xứ đồng khác nhau) là rào cản  
4 Bao gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng trị, Thừa Thiên Huế  
5 Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ về việc ban hành Bản quy định về việc  
giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp  
66  
cho quá trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn khiến năng suất lao động nông  
nghiệp không được cải thiện.  
Thứ hai, các đạo Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai  
năm 2013 đều nhất quán quan điểm “bảo đảm cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản  
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối có đất sản xuất”. Điều  
này là dễ hiểu bởi nước ta là một nước nông nghiệp có khoảng 70% dân số là nông  
dân. Quan điểm này được thể hiện trong Luật Đất đai năm 2013 với một số quy định  
cụ thể sau:  
Một là, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, người  
Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được  
nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất đối với trường hợp mà pháp  
luật không cho phép chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất.  
Hai là, tổ chức kinh tế không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất  
trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng của hộ gia đình, cá nhân, trừ trường  
hợp được chuyển mục đích sử dụng đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được  
cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.  
Ba là, hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được  
nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa.  
Bốn là, hộ gia đình, cá nhân không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho  
quyền sử dụng đất ở, đất nông nghiệp trong khu vực rừng phòng hộ, trong phân khu  
bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng, nếu không  
sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ, rừng đặc dụng đó6.  
Tuy nhiên, quy định này đang là rào cản cho quá trình tích tụ, tập trung đất  
nông nghiệp, gây khó khăn cho hàng hóa nông sản của nước ta tham gia vào chuỗi  
giá trị toàn cầu do không áp dụng được máy móc, công nghệ hiện đại vào sản xuất  
nông nghiệp. Hiện nay, giá cả hàng hóa nông sản Việt không cạnh tranh được với sản  
phẩm cùng loại của các nước trong khu vực và thế giới. Nguyên nhân cơ bản của thực  
trạng này là năng suất lao động thấp. “Mức năng suất của Việt Nam hiện nay vẫn  
6 Điều 191 Luật Đất đai năm 2013  
67  
rất thấp so với nhiều nước trong khu vực. “Tính theo sức mua tương đương năm  
2011, năng suất lao động của Việt Nam năm 2016 đạt 9.894 USD, chỉ bằng 7% của  
Singapore; 17,6% của Malaysia; 36,5% của Thái Lan; 42,3% của Indonesia; 56,7%  
của Philippines và bằng 87,4% năng suất lao động của Lào", Tổng cục Thống kê cho  
hay. Đặc biệt, Tổng cục Thống kê còn đưa ra cảnh báo chênh lệch về năng suất lao  
động giữa Việt Nam và các nước trong khu vực tiếp tục gia tăng. Cụ thể, Tổng cục  
Thống kê dẫn nghiên cứu của World Bank, chênh lệch mức năng suất lao động (tính  
theo PPP năm 2011) của Singapore và Việt Nam tăng từ 115.087 USD năm 2006 lên  
131.333 USD năm 2016; tương tự, của Malaysia từ 39.806 USD lên 46.190 USD;  
Thái Lan từ 14.591 USD lên 17.208 USD; Indonesia từ 10.100 USD lên 13.496 USD;  
Philippines từ 6.691 USD lên 7.561 USD; Lào từ 220 USD lên 1.422 USD7 hay  
“Báo cáo của Tổng cục Thống kê cho biết, năm 2015, năng suất lao động của Việt  
Nam theo giá hiện hành đạt 3.660 USD, chỉ bằng 4,4% của Singapore. Như vậy, mỗi  
người Singapore làm việc có năng suất bằng 23 người Việt cộng lại. Ngoài ra, năng  
suất lao động của người Việt cũng chỉ bằng 17,4% của Malaysia, 35,2% của Thái  
Lan; 48,5% của Philippines và 48,8% của Indonesia8. Hơn nữa, tình trạng sử dụng  
ruộng đất phân tán, nhỏ lẻ là rào cản cho việc áp dụng máy móc hiện đại, khoa học -  
công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp. Việc ứng dụng công nghệ xanh, công  
nghệ sản xuất sạch trong sản xuất nông nghiệp còn nhiều hạn chế. Điều này dẫn đến  
nông sản Việt không đảm bảo chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm và có giả cả cao  
hơn các sản phẩm cùng loại của khu vực và thế giới.  
1.3. Bất cập trong tiếp cận đất đai của doanh nghiệp tham chiều từ chính  
sách, pháp luật đất đai9  
Theo nghiên cứu của PGS.TS. Vũ Thị Minh & ThS. Lưu Đức Khải, kết quả  
điều tra doanh nghiệp, trong năm 2014 cho thấy hầu hết doanh nghiệp (78,5%) cho  
7 Bạch Dương (2017), Tổng cục Thông kê: Năng suất lao động người Việt Nam thua Lào, bằng 7% Singapore,  
Nguồn: Báo điện tử Vn. Economy, ngày 27/12 17:09  
8
Bạch Huệ (2016), 23 người Việt có năng suất lao động bằng 1 người Singapore, Nguồn: Báo điện tử Vn.  
Economy, ngày 29/12 15:07  
9
Nội dung phần này tham khảo Báo cáo tham luận về vướng mắc trong tiếp cận đất của doanh nghiệp của  
PGS.TS. Vũ Thị Minh & ThS. Lưu Đức Khải tại Tọa đàm Chính sách khuyến khích tích tụ, tập trung đất nông  
nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn do Ban Kinh tế Trung ương - Vụ Nông nghiệp,  
nông thôn và Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn - Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp  
nông thôn tổ chức ngày 10/01/2017 tại Hà Nội.  
68  
rằng doanh nghiệp duy trì quy mô sản xuất như bình thường, 15,2% doanh nghiệp có  
kế hoạch mở rộng kinh doanh. Số còn lại giảm quy mô sản xuất, tạm dừng hoặc đóng  
cửa, giải thể. Điều này cho thấy doanh nghiệp nông nghiệp đang phải đối mặt với khá  
nhiều khó khăn, rào cản trong kinh doanh; cụ thể:  
Thứ nhất, doanh nghiệp cho biết có nhiều lý do dẫn đến việc phải giảm sản  
xuất, tạm dừng hoặc đóng cửa như không vay được vốn (40%), không tìm được thị  
trường đầu ra (40%), giá cả nguyên vật liệu đầu vào cao (29,4%); không tuyển được  
lao động theo yêu cầu (20%), môi trường kinh tế vĩ mô không ổn định (20%) và muốn  
chuyển sang ngành nghề kinh doanh khác (7,7%) … Một trong những vấn đề mà các  
doanh nghiệp phải đối mặt là khó khăn về tiếp cận đất đai hầu như chưa được cải  
thiện mặc dù đã có nhiều chính sách liên quan được ban hành. Có tới 63% doanh  
nghiệp gặp khó khăn trong tiếp cận đất đai trong khi tình hình không mấy được cải  
thiện. Điều này cho thấy tiếp cận đất đai đang là rào cản lớn đối với các doanh nghiệp  
nông nghiệp10.  
Thứ hai, theo đánh giá của doanh nghiệp nông nghiệp thì hầu như không có  
sự tiến bộ đáng kể nào trong tiếp cận đất đai. Tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá “tốt lên”  
hầu như không thay đổi và duy trì ở mức khoảng 10%; trong khi tỷ lệ doanh nghiệp  
đánh giá “kém đi” lại tăng từ 6,3% lên 7,8%. Khoảng 50% doanh nghiệp đánh giá  
dịch vụ đất đai “không có thay đổi gì” và có trên 1/3 số doanh nghiệp “không biết”  
về dịch vụ đất đai11. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp phải “tự bơi” khi muốn mở  
rộng mặt bằng cho sản xuất - kinh doanh; Vì ngoài vấn đề vốn, sức lao động và khoa  
học công nghệ thì mặt bằng cũng là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp mở rộng  
quy mô sản xuất - kinh doanh. Đây thực sự là điểm nghẽn trong hoạt động của các  
doanh nghiệp nông nghiệp.  
Thứ ba, hiện nay, hầu hết diện tích đất nông nghiệp được giao cho hộ gia đình,  
cá nhân sử dụng ổn định lâu dài nên còn không nhiều quỹ đất này Nhà nước đang  
10 Vũ Thị Minh & Lưu Đức Khải, Báo cáo tham luận về vướng mắc trong tiếp cận đất của doanh nghiệp - Tọa  
đàm Chính sách khuyến khích tích tụ, tập trung đất nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp,  
nông thôn do Ban Kinh tế Trung ương - Vụ Nông nghiệp, nông thôn và Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông  
thôn - Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn tổ chức ngày 10/01/2017 tại Hà Nội,  
tr.6.  
11 Báo cáo tham luận về vướng mắc trong tiếp cận đất của doanh nghiệp, Tldd, tr. 7.  
69  
quản lý để cho doanh nghiệp thuê sử dụng vào mục đích nông nghiệp. Với quy mô  
bình quân đất đai nhỏ và manh mún như hiện nay (bình quân khoảng 4.280 m2/hộ)  
thì doanh nghiệp phải ký kết hợp đồng với hàng chục, thậm chí hàng trăm hộ gia đình  
nông dân mới có đủ đất để triển khai thực hiện dự án nông nghiệp. Trong trường hợp  
này, việc thỏa thuận, thương lượng, bồi thường rất khó khăn, phức tạp, kéo dài do  
không ít hộ gia đình đưa ra mức tiền bồi thường quá cao. Muốn tiếp cận được đất đai,  
doanh nghiệp phải mất rất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc. Để tháo gỡ khó khăn  
này, một số địa phương như Hà Nam, Thái Bình …, Ủy ban nhân dân xã đứng ra thỏa  
thuận với các hộ gia đình về việc chuyển đổi đất nông nghiệp, sau đó ký hợp đồng  
cho các doanh nghiệp thuê. Tuy nhiên, dưới góc độ pháp lý, hành vi này là không  
đúng với các quy định của Luật Đất đai năm 201312.  
Thứ tư, trong kinh doanh nói chung và kinh doanh về nông nghiệp nói riêng,  
muốn phát triển thì doanh nghiệp phải đầu tư thương mại hóa và hiện đại hóa sản xuất  
từ việc xác định nhu cầu thị trường để hoạch định sản phẩm đến đầu tư khoa học,  
công nghệ tiến tiến, hiện đại vào sản xuất v.v. Do đó, chủ động sản xuất trên cơ sở  
tích tụ, tập trung đất đai cho sản xuất quy mô lớn là điều kiện cần thiết. Việc pháp  
luật đất đai hiện hành không cho phép tổ chức kinh tế được nhận chuyển nhượng  
quyền sử dụng đất trồng lúa của hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp hạn chế  
việc tập trung đất đai. Trong khi đó, trên thực tế việc chuyển đổi, tập trung ruộng đất  
dưới hình thức trang trại, cánh đồng lớn đã và đang thực hiện tại một số địa phương  
nhưng còn ở quy mô nhỏ và chưa tạo được động lực mạnh mẽ cho doanh nghiệp cũng  
như người dân; việc phá vỡ hợp đồng vẫn còn xảy ra.  
12  
Đây là hình thức chính quyền địa phương đứng ra thuê quyền sử dụng đất của hộ dân, sau đó cho doanh  
nghiệp thuê lại. Loại hình này mới diễn ra trên địa bàn huyện Lý Nhân, tính Hà Nam (có lẽ là duy nhất ở Vùng  
đồng bằng sông Hồng). Để thúc đẩy hình thành các mô hình điểm trong việc tập trung ruộng đất, tỉnh Hà Nam  
đã tiến hành thí điểm hình thức chính quyền tham gia trực tiếp vào việc thuê đất của doanh nghiệp. Cụ thể,  
chính quyền cấp huyện và xã đứng ra thuê đất của dân với thời hạn là 20 năm, sau đó cấp tỉnh ký hợp đồng cho  
doanh nghiệp thuê lại đúng như thời gian thuê đất và giá thuê đất của dân (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất  
nông dân giữ). Tiền thuê đất của dân được chính quyền tỉnh ứng ngân sách ra trả cho dân trong thời hạn thuê  
đất 20 năm, sau đó doanh nghiệp trả lại tiền thuê đất 10 năm đầu sau khi ký hợp đồng, sau 10 năm doanh  
nghiệp sẽ trả hết số tiền thuê đất còn lại cho tỉnh. Hà Nam là một trong hai tỉnh trong cả nước được Trung ương  
cho phép xây dựng cơ chế thí điểm thực hiện tích tự, tập trung ruộng đất (Công văn số 9267/VPCP-NN ngày  
31/8/2017 của Văn phòng Chính phủ) (Trích Báo cáo “Quyền và lợi ích của hộ nông dân trong tích tụ và tập  
trung ruộng đất: Thực trạng và những kiến nghị” của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hà Nội -  
2018; tr. 31 &32).  
70  
Thứ năm, Luật Đất đai năm 2013 được sửa đổi, bổ sung theo hướng xây dựng  
quyền tiếp cận đất đai của doanh nghiệp phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Các đối  
tượng bị Nhà nước thu hồi đất để giao, cho thuê đất bị thu hẹp lại; theo đó, Nhà nước  
thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,  
công cộng được quy định cụ thể tại Điều 62. Tuy nhiên, trong điều kiện nguồn lực  
đất đai có hạn và khó tập trung như hiện nay thì chỉ những dự án nông nghiệp công  
nghệ cao mới được ưu tiên tiếp cận nguồn đất sạch. Như vậy, các doanh nghiệp bị  
sàng lọc và phải cạnh tranh với nhau để có được nguồn đất sạch cho kinh doanh.  
Thứ sáu, các quy định về ưu đãi đất đai cho doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực  
nông nghiệp được ban hành song nguồn lực thực hiện hạn chế nên ít doanh nghiệp  
tận dụng được cơ hội. Để có đất sử dụng cho kinh doanh, các doanh nghiệp phải đẩy  
mạnh việc liên kết với hộ gia đình nông dân theo phương thức doanh nghiệp đầu tư  
và hộ gia đình nông dân góp đất. Tuy nhiên, khó khăn đặt ra là việc giải quyết hài  
hòa lợi ích giữa các bên trong mô hình liên kết sản xuất này; đặc biệt là việc giải tỏa  
tâm lý giữ đất nhằm đảm bảo sinh kế khi bất trắc xảy ra của người nông dân13 cũng  
như việc tuân thủ hợp đồng để doanh nghiệp yên tâm kinh doanh trên đất liên kết đó.  
2. Đánh giá một số chính sách chủ yếu về quản lý và sử dụng đất nông  
nghiệp tiếp cận từ khía cạnh tích tụ, tập trung đất đai14  
2.1. Chính sách giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản  
xuất nông nghiệp sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích nông nghiệp (sau đây gọi  
là chính sách giao đất nông nghiệp)  
13 Trong quá trình đàm phán thuê đất của doanh nghiệp, các hộ nông dân luôn có 3 nhóm ứng xử khác nhau …  
Nhóm thứ nhất, là nhóm sẵn sàng cho thuê đất … Tỷ lệ hộ thuộc nhóm này chiếm từ 60 - 70%. Nhóm thứ hai,  
là nhóm còn lưỡng lự khi cho thuê đất. Nhóm này chủ yếu là những hộ chưa có nghề thay thế nghề nông nghiệp  
(đặc biệt là họ chỉ có duy nhất một thửa ruộng) nên vẫn muốn làm nông nghiệp, là nhóm hộ có ngành nghề  
khác thay thế nông nghiệp nhưng vẫn muốn làm ruộng để lấy lúa cho gia đình ăn hoặc cho con cháu (vì an  
toàn thực phẩm tốt hơn nếu gia đình tự làm). Tỷ lệ hộ thuộc nhóm này chiếm khoảng 30 -35%. Nhóm thứ ba,  
là nhóm 3 không - không đồng ý cho thuê đất, không đồng ý bán, không đồng ý dồn đổi sang cánh đồng khác  
(mặc dù đất đồng khác tốt hơn, gần nhà hơn) … Tỷ lệ hộ nhóm này chỉ chiếm từ 1 - 5% (Trích Báo cáo “Quyền  
và lợi ích của hộ nông dân trong tích tụ và tập trung ruộng đất: Thực trạng và những kiến nghị” của Viện  
Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hà Nội - 2018; tr. 62).  
14 Tham khảo bài viết “Đánh giá về một số chính sách sử dụng đất nông nghiệp hiện nay” của Nguyễn Quang  
Tuyến và Bùi Thế Hùng đăng trên Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn, số 10, năm 2016  
71  
2.1.1. Tổng quan về chính sách giao đất nông nghiệp  
Ở nước ta, đổi mới cơ chế quản lý đất đai bắt đầu từ việc đổi mới chính sách  
quản lý, sử dụng đất nông nghiệp bằng việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá  
nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp (sau đây gọi là giao  
đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài). Trong thời kỳ tập  
trung quan liêu bao cấp trước đây, đất nông nghiệp chủ yếu do các hợp tác xã, tập  
đoàn sản xuất nông nghiệp, các nông trường v.v quản lý và sử dụng thì hiện nay,  
trong nền kinh tế thị trường, hộ gia đình, cá nhân là người sử dụng đất nông nghiệp  
ổn định, lâu dài. Chính sách giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng  
ổn định lâu dài manh nha hình thành từ cơ chế khoán hộ được thử nghiệm tại một số  
địa phương trong thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp trước đây như ở tỉnh Vĩnh Phú  
(cũ), huyện Vĩnh Bảo (TP. Hải Phòng) … và đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt, năng  
suất lao động được nâng cao, tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất trong nông nghiệp do  
có sự gắn kết giữa người nông dân với đất đai. Thực tiễn này được tổng kết và ghi  
nhận trong Chỉ thị số 100/CT- TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 13/01/1981  
“Về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động  
trong hợp tác xã nông nghiệp” và Nghị quyết số 10/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày  
05/04/1988 “Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”. Nó được thể chế hóa trong  
Luật Đất đai năm 1993 và Nghị định số 64/CP ngày 27/09/1993 của Chính phủ (Nghị  
định 64/CP) về giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu  
dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Để bảo đảm sự ổn định, đoàn kết, bình đẳng  
trong nội bộ nhân dân và tạo tâm lý yên tâm cho người nông dân trong sử dụng ổn  
định đất nông nghiệp, Nghị định 64/CP xác lập các nguyên tắc cơ bản khi Nhà nước  
giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích  
sản xuất nông nghiệp, bao gồm: i) Giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử  
dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp trên cơ sở hiện trạng sử dụng  
đất, điều chỉnh đất nông nghiệp bằng việc rút bớt diện tích đất nông nghiệp của hộ  
gia đình, cá nhân sử dụng nhiều đất sang giao cho hộ gia đình, cá nhân không có đất  
hoặc thiếu đất nông nghiệp để sản xuất; ii) Đảm bảo sự công bằng trong việc giao đất  
(mỗi hộ gia đình, cá nhân được giao các loại đất nông nghiệp khác nhau dựa trên  
nguyên tắc “có gần có xa, có tốt, có xấu”), ổn định, tránh xáo trộn và duy trì sự đoàn  
72  
kết trong nội bộ nhân dân; iii) Giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng  
ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp là giao chính thức và người sử  
dụng đất nông nghiệp ổn định lâu dài được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử  
dụng đất; iv) Đất nông nghiệp giao cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài  
vào mục đích sản xuất nông nghiệp được xác định thời hạn sử dụng cụ thể; theo đó,  
thời hạn giao đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối cho hộ  
gia đình, cá nhân sử dụng là 20 năm; thời hạn giao đất trồng cây lâu năm, đất rừng  
sản xuất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng là 50 năm. Thời hạn giao đất được tính từ  
ngày có quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; trường hợp đất  
được Nhà nước giao trước ngày 15/10/199315 thì thời hạn giao đất được tính từ ngày  
15/10/1993. Khi hết thời hạn, người sử dụng đất được Nhà nước tiếp tục giao đất nếu  
có nhu cầu tiếp tục sử dụng, chấp hành đúng pháp luật về đất đai trong quá trình sử  
dụng và việc sử dụng đất đó phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt16.  
2.1.2. Đánh giá về chính sách giao đất nông nghiệp  
i) Mặt tích cực  
Chính sách giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu  
dài thể hiện tính tích cực trên một số khía cạnh cơ bản sau đây:  
- Chính sách giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định  
lâu dài đã gắn bó người nông dân với đất đai. Họ được làm chủ thực sự đối với đất  
nông nghiệp và ngày càng nhận thức được vị trí, vai trò của đất nông nghiệp; trên cơ  
sở đó tạo động lực thúc đẩy sự sáng tạo, chủ động và khuyến khích đầu tư lâu dài vào  
đất nông nghiệp, năng suất lao động nông nghiệp được nâng cao. Chính sách giao đất  
nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài đã góp phần tạo nên  
những thành tựu to lớn trong sản xuất nông nghiệp đưa nước ta trở thành nước xuất  
khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới và là quốc gia đứng thứ nhất, thứ nhì về xuất khẩu cà phê,  
chè v.v.  
- Chính sách giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định  
lâu dài trả lại đất đai về với người lao động, thực hiện mơ ước ngàn đời của người  
15 Ngày Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực thi hành  
16 Điều 67 Luật Đất đai năm 1993  
73  
nông dân “Người cày có ruộng” và hiện thực hóa quan điểm, chính sách của Đảng và  
Nhà nước bảo đảm cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng  
thủy sản và làm muối có đất để sản xuất. Đồng thời, góp phần củng cố khối liên minh  
công - nông dưới sự lãnh đạo của Đảng.  
- Chính sách giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định  
lâu dài góp phần phát triển mô hình kinh tế trang trại, khai thác tiềm năng thế mạnh  
về đất đai, sức lao động và tạo sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất, phân công lại lao động  
trong nông nghiệp.  
- Chính sách giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định  
lâu dài góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tăng tỷ suất lợi nhuận đầu tư/1ha đất  
nông nghiệp; thúc đẩy quá trình khai hoang, phục hóa và phủ xanh đất trống, đồi núi  
trọc v.v.  
ii) Thách thức  
Bên cạnh mặt tích cực, việc thực hiện chính sách giao đất nông nghiệp cho hộ  
gia đình, cá nhân nảy sinh một số vấn đề cần phải tháo gỡ; cụ thể:  
- Chính sách giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định  
lâu dài theo kiểu bình quân, cào bằng chỉ phù hợp trong giai đoạn đầu khi nước ta  
chuyển đổi từ nền kinh tế quản lý theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp kế hoạch  
hóa cao độ sang nền kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường; khi mà sản  
xuất nông nghiệp phát triển ở trình độ thấp (nền nông nghiệp sản xuất theo kiểu tự  
cung tự cấp) chưa phải là nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa. Bởi lẽ, chính sách giao  
đất này làm cho tình trạng sử dụng ruộng đất bị phân tán, manh mún nên không có  
điều kiện áp dụng cơ giới hóa, đưa máy móc vào sản xuất nông nghiệp; năng suất lao  
động trong khu vực nông nghiệp không được nâng cao và đời sống của người nông  
dân không được cải thiện.  
- Chính sách giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định  
lâu dài theo kiểu bình quân, cào bằng chỉ đảm bảo nguyên tắc công bằng, đảm bảo  
cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm  
muối có đất sản xuất tại thời điểm giao đất. Đối với những đối tượng sinh ra sau thời  
74  
điểm giao đất sẽ không được giao đất do không còn đất nông nghiệp để giao. Hơn  
nữa chính sách giao đất này đưa đến tình trạng đất đai không được điều chỉnh theo  
biến động nhân khẩu trong quá trình sử dụng đất; bởi lẽ, trong quá trình sử dụng đất  
có hộ gia đình có thành viên chết hoặc chuyển đổi nghề nghiệp từ sản xuất nông  
nghiệp sang làm trong khu vực nhà nước, làm trong các doanh nghiệp v.v. nhưng  
không bị rút bớt diện tích đất nông nghiệp. Các hộ này sử dụng đất nông nghiệp không  
hết nên đem cho mượn, cho thuê lại… Ngược lại, một số hộ gia đình tăng thêm nhân  
khẩu do sinh đẻ hoặc con cái lập gia đình… trở nên thiếu đất sản xuất vì địa phương  
không còn đất nông nghiệp để giao tiếp. Thực trạng này tiềm ẩn nguy cơ tranh chấp  
đất trong cộng đồng người dân ở khu vực nông thôn.  
iii) Khuyến nghị giải pháp hoàn thiện chính sách giao đất nông nghiệp  
Để khắc phục một số bất cập của chính sách giao đất nông nghiệp cho hộ gia  
đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài theo kiểu bình quân, cào bằng cần áp dụng  
đồng bộ, tổng thể một số giải pháp cơ bản sau đây:  
- Tuyên truyền, khuyến khích và động viên các hộ gia đình, cá nhân tự nguyện  
chuyển đổi ruộng đất cho nhau để khắc phục tình trạng manh mún về đất nông nghiệp  
theo hướng giảm số lượng các thửa đất nông nghiệp và tăng diện tích của từng thửa  
đất.  
- Tập trung thực hiện chính sách phát triển đa dạng hóa các ngành nghề sản  
xuất phi nông nghiệp ở nông thôn, thúc đẩy một số ngành dịch vụ, thương mại, thủ  
công truyền thống phát triển… để có điều kiện rút bớt một lực lượng lao động nông  
nghiệp sang làm trong các ngành, nghề này; tránh gây áp lực quá lớn về nhu cầu sử  
dụng đất nông nghiệp. Ở một số khu vực nông thôn có điều kiện thuận lợi về giao  
thông, địa hình, cảnh quan cần xây dựng và phát triển mô hình sản xuất nông nghiệp  
kết hợp với du lịch sinh thái; đầu tư thực hiện “đô thị hóa” khu vực nông thôn tham  
khảo kinh nghiệm của Trung quốc.  
- Thực hiện quyết liệt chính sách sinh đẻ có kế hoạch theo phương châm “mỗi  
gia đình chỉ có từ một đến hai con”; giảm tỷ lệ sinh và vận động các cặp vợ chồng áp  
dụng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình để tránh gây áp lực về dân số ở khu vực  
nông thôn.  
75  
- Thực hiện chính sách hỗ trợ khuyến học, động viên các thế hệ trẻ ở nông  
thôn ra sức học tập, thoát ly, tìm kiếm việc làm ở khu vực đô thị, các khu công nghiệp  
và đi xuất khẩu lao động v.v để giảm bớt áp lực về nhu cầu việc làm trong khu vực  
nông nghiệp.  
- Xây dựng và thực hiện cơ chế xã hội hóa thu hút đầu tư của các thành phần  
kinh tế vào việc đào tạo, chuyển đổi ngành nghề cho người lao động ở nông thôn; đi  
đôi với việc Nhà nước đầu tư triển khai chính sách dạy nghề, tìm kiếm việc làm cho  
thanh niên nông thôn.  
- Áp dụng phương thức kinh doanh tổng hợp trong sản xuất nông nghiệp nhằm  
khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của đất đai và hình thành các vùng sản  
xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung.  
- Chú trọng, thực hiện chính sách đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật  
và công nghệ hiện đại trong việc thâm canh, tăng vụ, đẩy mạnh tăng trưởng xanh và  
áp dụng quy trình sản xuất sạch trong nông nghiệp; nâng cao hiệu suất đầu tư trên  
một đơn vị diện tích đất và cải thiện năng suất lao động nông nghiệp v.v.  
2.2. Chính sách “dồn điền đổi thửa” đất nông nghiệp  
2.2.1. Thực trạng và vướng mắc khi thực hiện chính sách dồn điền đổi thửa17  
đất nông nghiệp  
Chính sách giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu  
dài mang tính bình quân theo Nghị định 64/CP đảm bảo được sự bình đẳng, ổn định,  
đoàn kết trong nội bộ nhân dân; song làm cho ruộng đất sử dụng phân tán, manh mún  
(đặc biệt là ở khu vực đồng bằng sông Hồng và Khu IV cũ). Dẫn theo kết quả nghiên  
cứu của Hoàng Xuân Phương (2008) cho thấy: “…việc giao đất nông nghiệp cho hộ  
gia đình theo phương châm “có gần, có xa, có tốt, có xấu” bộc lộ một số hạn chế: 1)  
Ruộng đất được giao manh mún, nhiều hộ gia đình có 15 - 16 mảnh đất nằm rải rác  
ở nhiều xứ đồng (có nơi các xứ đồng cách nhau 1 - 2 km); 2) Quy mô thửa đất nhỏ,  
có mảnh chỉ trên dưới 100m2; 3) Ruộng đất manh mún, đã gây trở ngại cho cơ giới  
hóa, khó áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, không thể sản xuất tập trung … dẫn tới nông  
17 Dồn điền đổi thửa là cách nói dân dã của người dân. Đây chính là việc chuyển đổi đất nông nghiệp giữa hộ  
gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp để tổ chức lại sản xuất nông nghiệp ở nông thôn.  
76  
sản có giá thành cao, khó huy động được một khối lượng sản phẩm lớn có chất lượng  
đồng đều đáp ứng nhu cầu của thị trường”18.Tình trạng sử dụng đất nông nghiệp  
phân tán, manh mún cản trở việc thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp; người nông dân  
phải tốn kém thời gian, công sức và chi phí tiền bạc trong quá trình sản xuất nông  
nghiệp như công cày bừa, tưới tiêu, chăm bón và thu hoạch v.v.. Khắc phục tình trạng  
này, chính sách dồn điền đổi thửa được ban hành. Để khuyến khích hộ gia đình, cá  
nhân sử dụng đất nông nghiệp tự nguyện chuyển đổi ruộng đất cho nhau nhằm tích  
tụ, tập trung đất đai, Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Hộ gia đình, cá nhân sử dụng  
đất nông nghiệp được Nhà nước giao trong hạn mức có quyền chuyển đổi quyền sử  
dụng đất nông nghiệp trong cùng một xã, phường, thị trấn với hộ gia đình, cá nhân  
khác”19. Tuy nhiên, quá trình thực hiện chính sách này gặp phải một số vướng mắc  
chủ yếu sau đây:  
Thứ nhất, về giải quyết số lao động dôi dư sau quá trình dồn điền, đổi thửa.  
Chuyển đổi ruộng đất thông qua dồn điền, đổi thửa giữa các hộ gia đình, cá nhân với  
nhau dẫn đến số lượng các thửa đất giảm và làm tăng diện tích từng thửa đất, góp  
phần tích tụ, tập trung đất nông nghiệp. Điều này tạo thuận lợi cho việc đưa cơ giới  
hóa, áp dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất nông nghiệp, nâng cao năng  
suất lao động và giảm chi phí đầu vào của quá trình sản xuất nông nghiệp. Song số  
lao động nông nghiệp dôi dư sau dồn điền đổi thửa rơi vào tình trạng thất nghiệp  
không có công ăn việc làm; đời sống gia đình gặp khó khăn.  
Thứ hai, giải quyết thị trường đầu ra cho sản phẩm hàng hóa nông nghiệp.  
Tích tụ, tập trung đất nông nghiệp thông qua thực hiện chính sách dồn điền  
đổi thửa sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình CNH-HĐH nông nghiệp và hình  
thành những khu vực sản xuất nông nghiệp hàng hóa, tập trung. Kết quả là lượng sản  
phẩm nông nghiệp sản xuất ra ngày càng nhiều. Vấn đề đặt ra là phải giải quyết bài  
toán đầu ra cho nông sản hàng hóa. Đây là căn bệnh trầm kha kéo dài trong nhiều  
năm qua. Hàng năm, chúng ta vẫn phải chứng kiến cảnh người nông dân “được mùa  
18 Xuân Thị Thu Thảo, Phạm Phương Nam, Hồ Thị Lam Trà: Kết quả thực hiện dồn điền đổi thửa trên địa bàn  
tỉnh Nam Định; Tạp chí Khoa học và Phát triển 2015, tập 13 số 6: 931 - 942 (J. Sci & Devel.2015, Vol 13, No  
6: 931 - 942); Tr. 931 - 932.  
19 Điểm b khoản 1 Điều 179 Luật Đất đai năm 2013.  
77  
rớt giá”. Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải phát triển mạnh mẽ công nghiệp chế biến,  
bảo quản nông sản hàng hóa sau thu hoạch nhằm hỗ trợ người nông dân. Do sự phát  
triển yếu kém của ngành công nghiệp này mà hàng hóa nông sản của Việt Nam thường  
có giá trị thấp trên thị trường thế giới và bị nông sản của các nước khác cạnh tranh;  
thậm chí nông sản nước ta bị thua ngay trên sân nhà. Điều này bộc lộ ngày càng  
nghiêm trọng khi Việt Nam đã gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (ngày  
31/12/2015) và ký kết Hiệp định Thương mại tiến bộ xuyên Thái bình dương (CTPP).  
Thứ ba, về nguồn vốn chi cho công tác đo vẽ, chỉnh lý bản đồ địa chính, sổ  
sách địa chính và cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện dồn  
điền, đổi thửa.  
Thực tiễn việc dồn điền, đổi thửa ở một số địa phương cho thấy kinh phí dành  
cho công tác này còn hạn chế và gặp rất nhiều khó khăn; đặc biệt là những xã, thị trấn  
không có đấu giá quyền sử dụng đất cho nhân dân làm nhà ở. Xin đơn cử báo cáo kết  
quả thực hiện công tác dồn điền đổi thửa và kế hoạch năm 2016 của huyện Mộ Đức  
(tỉnh Quảng Ngãi); trong đó có đề cập vấn đề kinh phí: “Nhu cầu kinh phí thực hiện  
dồn điền, đổi thửa năm 2014 là 1.815.641.500 đồng; nhu cầu kinh phí thực hiện dồn  
điền, đổi thửa năm 2015 là 3.708.187.700 đồng. Trong khi đó, ngân sách tỉnh cấp  
kinh phí cho thực hiện dồn điền, đổi thửa trong 02 năm (2014 và 2015) là 504.000.000  
đồng. Như vậy kinh phí còn thiếu là 5.019.829.200 đồng”20. Vậy vấn đề đặt ra là  
nguồn vốn đầu tư cho các xã chỉnh lý biến động đất đai do thực hiện dồn điền, đổi  
thửa lấy ở đâu? Ngân sách trung ương không thể cấp một lượng tiền lên đến hàng  
ngàn tỷ đồng để phục vụ cho công tác đo vẽ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền  
sử dụng đất sau dồn điền đổi thửa; bởi lẽ, đây là một chủ trương và Nhà nước khuyến  
khích hộ gia đình, cá nhân nông dân tự nguyện thực hiện. Do vậy, dường như Bộ Tài  
chính không có đầy đủ cơ sở pháp lý để cấp phát kinh phí từ ngân sách nhà nước cho  
công tác đo vẽ địa chính sau khi dồn điển, đổi thửa. Trên thực tế, các tỉnh, thành phố  
trực thuộc trung ương trích kinh phí từ ngân sách địa phương để chi cho công tác đo  
vẽ địa chính sau khi hộ gia đình, cá nhân thực hiện dồn điền đổi thửa mà kinh phí địa  
20  
Ủy ban nhân dân huyện Mộ Đức (2015), Báo cáo số 183/BC-UBND - Báo cáo kết quả thực hiện công tác  
dồn điền, đổi thửa và kế hoạch năm 2016, ngày 20/07.  
78  
phương thì rất hạn hẹp; vì vậy, các địa phương cũng không “mặn mà” với việc tiến  
hành dồn điền đổi thửa.  
Thứ tư, tâm lý của người nông dân e ngại không muốn dồn điền đổi thửa một  
cách triệt để; bởi lẽ, thực hiện việc này một cách triệt để sẽ tiềm ẩn nguy cơ rủi ro  
trong sản xuất nông nghiệp. Theo điều tra, phỏng vấn trực tiếp của chúng tôi tại một  
thôn của huyện Thuận Thành (tỉnh Bắc Ninh) đối với các hộ gia đình thực hiện dồn  
điền đổi thửa, người nông dân nhận thức được ích lợi của việc làm này mang lại, tuy  
nhiên, họ chỉ muốn giảm số lượng từ 07 - 10 mảnh ruộng/hộ xuống còn từ 03 - 04  
mảnh mà không muốn đổi thành 01 mảnh ruộng; bởi lẽ, nếu đổi từ 07 - 10 mảnh  
xuống còn 01 mảnh ruộng ở vị trí cao thì gặp năm mưa ít sẽ bị hạn hán và có nguy  
cơ mất mùa. Ngược lại, nếu đổi lấy 01 mảnh ruộng ở vị trí thấp thì những năm có  
nhiều mưa bão, lũ lụt cũng sẽ tiềm ẩn nguy cơ mất mùa.  
Thứ năm, ở một số địa phương, cán bộ xã cũng không muốn thực hiện dồn  
điền đổi thửa một cách triệt để. Bởi lẽ, dồn điền đồi thửa thì phải tiến hành đo vẽ,  
chỉnh lý lại hồ sơ địa chính mà qua đó sẽ dễ bị phát hiện những diện tích đất nông  
nghiệp được địa phương để ngoài sổ sách, không khai báo và sử dụng cho các mục  
đích riêng…  
2.2.2. Khuyến nghị giải pháp hoàn thiện chính sách dồn điền đổi thửa đất nông  
nghiệp  
Để khắc phục một số vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực thi chính sách  
dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp cần thực hiện đồng bộ các giải pháp cụ thể sau:  
- Tiếp tục thực hiện tuyên truyền, phổ biến về chính sách dồn điền đổi thửa  
sâu rộng tới các hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp để họ thấy được  
mục đích, ý nghĩa và ích lợi của chính sách này mang lại. Trên cơ sở đó, vận động,  
khuyến khích hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp tự nguyện chuyển  
đổi ruộng đất cho nhau nhằm khắc phục tình trạng sử dụng đất nông nghiệp nhỏ lẻ,  
manh mún, phân tán.  
- Để góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách dồn điền đổi thửa, Nhà  
nước cần triển khai đồng bộ các giải pháp hỗ trợ cho nông dân về giống, hướng dẫn  
ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại vào sản xuất nông nghiệp;  
79  
tìm kiếm thị trường đầu ra cho sản phẩm nông sản hàng hóa và đẩy mạnh phát triển  
công nghiệp chế biến sau thu hoạch.  
- Thực hiện chính sách phát triển, mở rộng các ngành nghề dịch vụ ở khu vực  
nông thôn nhằm thu hút số lao động dôi dư khi thực hiện dồn điền đổi thửa vào làm  
việc; đi đôi với đầu tư vốn đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp và chú trọng xuất khẩu  
lao động cho khu vực nông thôn nhằm giải quyết việc làm cho người nông dân.  
- Nhà nước cần bố trí một nguồn vốn hỗ trợ các địa phương trong việc đo vẽ,  
chỉnh lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá  
nhân sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa.  
- Tăng cường thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện và xử lý nghiêm minh việc  
chính quyền một số địa phương để lại quỹ đất nông nghiệp sử dụng cho mục đích  
công ích nằm ngoài sổ sách và đang sử dụng không đúng quy định của pháp luật v.v.  
3. Giải pháp hoàn thiện chính sách quản lý, sử dụng đất nông nghiệp  
nhằm khuyến khích tích tụ, tập trung đất đai trong bối cảnh công nghiệp hóa,  
hiện đại hóa đất nước  
Thứ nhất, cần giải thích một cách chính thức khái niệm tích tụ và tập trung đất  
nông nghiệp nhằm khắc phục những cách hiểu khác nhau, hạn chế sai lệch không cần  
thiết. Trong sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 bổ sung quy định giải thích cụ thể về khái  
niệm tích tụ đất nông nghiệp; khái niệm tập trung đất nông nghiệp để có cách hiểu  
thống nhất tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tích tụ, tập trung đất nông nghiệp đạt  
hiệu quả.  
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quy định về hạn mức sử dụng đất nông nghiệp theo  
hướng không nên quy định về hạn mức giao đất, cho thuê đất nông nghiệp mà thay  
thế bằng việc bổ sung quy định chính sách thuế để điều chỉnh quy mô sử dụng đất  
nông nghiệp.  
Thứ ba, bỏ quy định về thời hạn sử dụng đất nông nghiệp bằng việc bổ sung  
quy định giao, cho thuê đất nông nghiệp sử dụng ổn định lâu dài như đối với đất phi  
nông nghiệp. Mặt khác, Nhà nước cần bổ sung quy định các trường hợp cụ thể thu  
hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; cụ  
thể quy định rõ.  
80