Tổng hợp lý thuyết xét đoán và ra quyết định trong kiểm toán

Nguyễn Thị Thu Hiền. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), ...-...  
Tng hp lý thuyết xét đoán và ra quyết định trong kim toán  
Literature review of judgment and decision in auditing  
Nguyễn Thị Thu Hiền1*  
1Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh, Việt Nam  
*Tác giả liên hệ, Email: hienntt@ueh.edu.vn  
THÔNG TIN  
TÓM TẮT  
DOI:10.46223/HCMCOUJS.  
Nghiên cứu xét đoán và ra quyết định (JDM) ngày càng trở  
nên quan trọng trong lý thuyết JDM nói chung, lý thuyết kiểm  
toán và thực hành kiểm toán. Bài viết tổng hợp các nghiên cứu  
trước nhằm cung cấp bức tranh khái quát về lý thuyết JDM trong  
kiểm toán, từ đó đưa ra các gợi ý cho nghiên cứu tương lai. Kế  
thừa danh mục các nghiên cứu JDM trong kiểm toán đã công bố  
đến năm 2010 của (Mala & Chand, 2015), nghiên cứu này còn bổ  
sung các nghiên cứu liên quan từ 2010 đến 2019 trên 10 tạp chí  
khoa học kế toán và kiểm toán. Sử dụng phương pháp phân tích  
nội dung để phân tích 244 nghiên cứu đã chọn lọc, bài viết tổng  
hợp lý thuyết JDM trong kiểm toán theo các chủ đề gồm con  
người (kiểm toán viên), nhiệm vụ kiểm toán và môi trường qua  
từng giai đoạn thuộc hơn nửa thế kỷ vừa qua. Kết quả nghiên cứu  
cung cấp định hướng cho nghiên cứu tiếp theo về JDM trong kiểm  
toán, về các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện xét đoán và ra  
quyết định của Kiểm Toán Viên (KTV), và chỉ ra điểm mạnh, hạn  
chế của phương pháp phòng thí nghiệm được sử dụng phổ biến  
trong lý thuyết này.  
Ngày nhận: 26/10/2020  
Ngày nhận lại: 03/03/2021  
Duyệt đăng: 09/03/2021  
Từ khóa:  
xét đoán và ra quyết định; kiểm  
toán; tổng hợp lý thuyết; con  
người; nhiệm vụ; môi trường  
ABSTRACT  
Judgment and Decision Marking research (JDM) in auditing  
is becoming more critical in general judgment theory, in auditing  
theory, and in auditing practice. This paper synthesizes the theory  
of JDM in auditing so that it provides an overview of this  
literature and provides suggestions for future researches. Based  
on a list of reviewed papers on JDM in auditing until 2010 by  
(Mala & Chand, 2015), this article has included relevant  
researches from 2010 to 2019 published in ten auditing and  
accounting journals. By using the content analysis method to  
analyze 244 related selected papers, this article has synthesized  
JDM literature in auditing over nearly half a century by topics of  
people, tasks, and environment through each period. The papers  
finding provides suggestions for future studies on the factors that  
Keywords:  
JDM; auditing; literature review;  
person; task; environment  
Nguyễn Thị Thu Hiền. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), ...-...  
influence auditor judgment and decision-making performance. In  
addition, the article also summarizes the strengths and limitations  
of the laboratory method used mainly in JDM research in  
auditing.  
1. Cơ sꢀ lthuyết  
Kim toán Báo Cáo Tài Chính (BCTC) là quá trình thu thập, đánh giá bằng chng về  
sphù hp ca thông tin trên BCTC vi khuôn khlp và trình bày BCTC. Quá trình này bao  
gồm: định hướng; đánh giá môi trường và đặc điểm của đơn vị; lp chiến lược và kế hoch  
kim toán; thc hiện và đánh giá kết quthc hin thnghim kim soát, thnghiệm cơ bản;  
đánh giá và rà soát tổng th; cuối cùng đưa ra ý kiến kim toán. KTV cn thc hin nhiu xét  
đoán, quyết định để hoàn thành các nhim vkhác nhau gn vi từng bước ca quy trình. Chính  
vì vy, JDM trong kim toán gn vi các giai đoạn ca cuc kim toán, phthuc vào môi  
trường, bi cảnh, nên các quy định, hướng dn khó có thgiúp cho tng cuc kiểm toán đạt  
chất lượng cao.  
Lý thuyết JDM trong kim toán giúp hiu được cách KTV thc hin các xét đoán và ra  
quyết định, chra bng cách nào ci thin được JDM trong kim toán. Lý thuyết này đóng góp  
cho lý thuyết kim toán, lý thuyết JDM chung, gi ý các nhà lập quy ban hành các quy định,  
góp phn tăng cường hướng dn, đào tạo KTV trên thc tế. Mặc dù có điểm tương đồng, nhưng  
vi nhim vụ và môi trường đặc thù, dẫn đến JDM trong kiểm toán có đặc trưng riêng so với lý  
thuyết JDM chung hay ng dng trong các ngành khoa học khác. Môi trường kiểm toán được  
to nên bi shin din ca các thành viên trong nhóm kim toán (cấp dưới, đồng cp, cp  
trên), scnh tranh gia các doanh nghip kim toán, tchc nghnghip vi vai trò tham gia  
ban hành chun mc và thi hành bquy tc trách nhim nghnghiệp, môi trường qun lý và  
môi trường pháp lý. Bên cạnh đó, kiểm toán là quá trình đa giai đoạn với đa dạng nhim v,  
nên các xét đoán và quyết định ca KTV va chu sự ảnh hưởng của đặc điểm tng nhim v,  
va btrcho nhau và din ra tun t.  
Lý thuyết JDM trong kế toán khởi động tnhững năm 1960, nhưng sang thp ktiếp  
theo mi xut hin lý thuyết này trong kim toán (Trotman, Tan, & Ang, 2011). Đến nay nghiên  
cu JDM trong kiểm toán đã có vị trí quan trng trong lý thuyết kim toán, thhin qua nhiu  
nghiên cu tng hp lý thuyết, như Libby và Lewis (1982), Ashton và Ashton (1995), Bonner  
(1999), Trotman và cng s(2011), Mala và Chand (2015). Trong snày, Mala và Chand  
(2015) là nghiên cu gần đây nhất, tng hp các nghiên cứu liên quan được công bố đến năm  
2010 trên 8 tp chí khoa hc vkế toán và kim toán có trng stham chiếu cao (Chan, Seow,  
& Tam, 2009). Kế tha kết qutng hp lý thuyết JDM trong kiểm toán đến năm 2010 của  
Mala và Chand (2015), bsung các bài viết công bố đến năm 2019 trên mười tp chí (bao gm  
8 tp chí được sdụng để chn lc các nghiên cu ca Mala và Chand (2015) và hai tp chí bổ  
sung mi), sdng phân loi các nghiên cu JDM trong kim toán ca Bonner (1999) và áp  
dụng phương pháp tổng hp lý thuyết truyn thng, nghiên cu này phân tích ni dung các  
nghiên cứu đã tp hp, từ đó cung cp góp ý cho các nghiên cứu tương lai.  
2. Phương pháp nghiên cu  
Trước hết bài viết kế thừa tập hợp các nghiên cứu công bố đến năm 2010 do Mala và  
Chand (2015) chọn lọc từ tám tạp chí Auditing: A Journal of Practice & Theory (AJPT),  
Contemporary Accounting Research (CAR), Accounting Organizations and Society (AOS),  
Nguyễn Thị Thu Hiền. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), ...-...  
Behavioral Research in Accounting (BRA), The Accounting Review (AR), Journal of  
Accounting Research (JAR), Accounting and Business Research (ABR) và Accounting  
Horizons (AH). Ngoài ra, hai tạp chí có đăng tải nhiều nghiên cứu liên quan trong giai đoạn sau  
năm 2010 được bổ sung gồm Managerial Auditing Journal (MAJ), International Journal of  
Auditing (IJA).  
Các bài viết trên các tạp chí được sàng lọc hai lần để đưa vào danh mục tham khảo. Lần  
đầu đọc danh mục từng số tạp chí để chọn các bài có tiêu đề liên quan đến JDM trong kiểm  
toán. Lần thứ hai, rà soát từ khóa, đọc tóm tắt, chọn lọc nghiên cứu phù hợp với mục tiêu tổng  
hợp để chính thức đưa dữ liệu phân tích. Để phù hợp với mục tiêu tổng hợp lý thuyết, lần chọn  
lọc thứ hai với các bài từ tạp chí cũng như các bài trong danh mục của Mala và Chand (2015)  
chỉ sử dụng các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực hiện xét đoán và ra  
quyết định của KTV với phương pháp nghiên cứu phòng thí nghiệm.  
Kết quả chọn được 118 nghiên cứu liên quan được công bố trước năm 2010, trong đó  
116 bài thuộc danh mục của Mala và Chand (2015) và 2 bài viết công bố trên hai tạp chí bổ  
sung IJA và MAJ, và 126 nghiên cứu công bố sau năm 2010 trên 10 tạp chí. Như vậy, toàn bộ  
danh mục để tổng hợp lý thuyết JDM trong kiểm toán là 244 nghiên cứu.  
Từ nghiên cứu đầu tiên công bố năm 1974, đến nay sau gần nửa thế kỷ, số lượng nghiên  
cứu JDM trong kiểm toán đã tăng đáng kể, đặc biệt tăng nhanh vào hai thập niên gần đây (chiếm  
40% tổng số) (Hình 1). Vị trí các tạp chí trong lý thuyết này có thay đổi qua các thời kỳ, JAR  
giữ vị trí số một ở giai đoạn trước năm 2010, hiện nay tạp chí quan trọng nhất là AJPT (Hình  
2).  
300  
250  
200  
150  
100  
50  
0
1970s  
1980s  
1990s  
2000s  
2010s  
Hình 1. Số lượng các nghiên cứu phát triển qua các giai đoạn  
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp  
Nguyễn Thị Thu Hiền. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), ...-...  
Trước 2010  
Sau 2010  
A J P T  
M A J  
C A R  
A O S  
B R A  
I J A  
A R  
J A R  
A B R  
A H  
Hình 2. Ttrng các nghiên cu công btrên các tp chí  
Ngun: tác gittng hp  
Dựa vào cơ sphân loi lý thuyết JDM trong kim toán ca Bonner (1999), bài viết tiến  
hành tng hp các nghiên cu theo các yếu tố: con người, nhim vụ và môi trường. Tng nghiên  
cứu được phân tích ni dung thuc các khía cnh (mục tiêu, phương pháp, kết qunghiên cu),  
từ đó khái quát sự phát trin lý thuyết này qua thi gian theo tng dòng nghiên cu. Kết quả  
ca nghiên cứu đóng góp cho lý thuyết này thông qua cung cấp đánh giá chung, cơ hội, thách  
thc và gợi ý hướng nghiên cứu tương lai về JDM trong kim toán.  
3. Kết quả  
3.1. Các yếu tố xác định JDM trong kiểm toán và phương pháp nghiên cứu.  
3.1.1. Yếu tố con người  
Theo Bonner (1999), yếu tố KTV được xem xét qua các đặc điểm của người ra quyết  
định, bao gồm kiến thức, sự thành thạo chuyên môn (kỹ năng chuyên môn), năng lực sử dụng  
các trợ giúp ra quyết định.  
(i) Kiến thức  
Để hoàn thành các nhiệm vụ khi thực hiện kiểm toán, KTV cần có kiến thức được tích  
lũy từ các chương trình đào tạo (trường học), chương trình huấn luyện (hiệp hội nghề nghiệp)  
(Knechel & Payne, 2001) và từ kinh nghiệm thực tế (Waller & Felix Jr, 1984) . Các kiến thức  
này bao gồm kiến thức chung, ngành, lĩnh vực và chuyên ngành.  
Thập niên 1980, kiến thức(chuyên môn kiểm toán) là yếu tố được nhiều nghiên cứu đưa  
vào xem xét ảnh hưởng đến JDM của KTV. Waller và Felix Jr (1984) cho rằng có ba phương  
diện về kiến thức cần được xem xét gồm nội dung kiến thức, cấu trúc kiến thức và cách thức để  
có được kiến thức. KTV cần có nhiều kiến thức khác nhau khi thực hiện nhiều nhiệm vụ khác  
nhau trong quá trình kiểm toán (Gibbins, 1984). Theo Mala và Chand (2015), nghiên cứu của  
Frederick và Libby (1986) được coi là nghiên cứu đầu tiên của lý thuyết này về kiến thức của  
KTV hiểu biết về mối quan hệ giữa kiểm soát nội bộ và sai sót có ảnh hưởng đến xét đoán của  
KTV. Cả hai nghiên cứu Frederick và Libby (1986) và Butt (1988) cùng xem xét cách thức  
KTV thu nhận được kiến thức thông qua trải nghiệm bằng cách so sánh kết quả xét đoán giữa  
KTV và sinh viên.  
Sang những năm 1990, nghiên cứu về yếu tố kiến thức được mở rộng sang khuôn mẫu  
dựa vào lược đồ, hay cách cấu trúc kiến thức. Choo và Trotman (1991) đã xem xét mối quan  
Nguyễn Thị Thu Hiền. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), ...-...  
hệ giữa sự khác biệt về cấu trúc kiến thức gắn với tình huống giả định hoạt động liên tục với  
xét đoán của các KTV có kinh nghiệm khác nhau. Nghiên cứu của Libby và Tan (1994) đã đánh  
giá tầm quan trọng của kiến thức quản trị doanh nghiệp đối với KTV và chứng minh kiến thức  
này là yếu tố chính phân biệt các cấp bậc trong kiểm toán.  
Sau đó, các nghiên cứu tập trung nhiều hơn vào kiến thức chuyên ngành, như bằng  
chứng kiểm toán (Hoffman, Joe, & Moser, 2003), kiến thức ngành (Hammersley, 2006). Joe và  
Vandervelde (2007) khám phá ảnh hưởng nhận thức của KTV về dịch vụ phi kiểm toán đến  
nhiệm vụ kiểm toán.  
Những năm gần đây, yếu tố kiến thức được khai thác nhiều hơn với các vấn đề đòi hỏi  
xét đoán cao trong kế toán và kiểm toán, như giá trị hợp lý (Griffin, 2014), tổn thất tài sản (V.  
L. Brown, Gissel, & Gordon Neely, 2016), rủi ro gian lận (Dennis & Johnstone, 2018). Bên  
cạnh đó, các biến tiềm ẩn liên quan đến trí nhớ (yếu tố quan trọng xác định kiến thức) cũng  
được khai thác thông qua sự gợi nhớ (Carpenter & Reimers, 2013; H. Lee, 2012), hay niềm tin  
vào cuộc kiểm toán trước (Hatfield, Jackson, & Vandervelde, 2011).  
Kiến thức là thông tin lưu trữ trong trí nhớ của con người, do vậy không quan sát trực  
tiếp được, nên các nghiên cứu tập trung đo lường thông qua các mô hình đo lường về nội dung  
kiến thức, tổ chức trí nhớ và quá trình học tập.  
(ii) Kỹ năng chuyên môn  
Libby và Luff (1993) đã chỉ ra mối quan hệ giữa kinh nghiệm và kiến thức, trong đó  
kinh nghiệm tạo cơ hội học tập, nên ảnh hưởng đến kiến thức và sau đó ảnh hưởng đến JDM.  
Dòng nghiên cứu này tập hợp các nghiên cứu về mối quan hệ giữa kỹ năng thành thạo chuyên  
môn và xét đoán của KTV. Kinh nghiệm của KTV được xem xét bao gồm kinh nghiệm trực  
tiếp và kinh nghiệm gián tiếp. Kinh nghiệm trực tiếp có được từ quá trình thực hiện nhiệm vụ,  
rà soát công việc của người khác, nhận được kết quả rà soát từ cấp trên và các phản hồi kết quả.  
Thảo luận với đồng nghiệp, đọc các hướng dẫn kiểm toán và tham gia huấn luyện mang lại kinh  
nghiệm gián tiếp cho KTV.  
Nghiên cứu hành vi trong kế toán, kiểm toán có thể sử dụng các đối tượng trong thử  
nghiệm là sinh viên (R. H. Ashton & Kramer, 1980). Vì vậy, để đánh giá kỹ năng chuyên môn,  
ngoài việc so sánh kết quả xét đoán và quyết định giữa các KTV có số năm kinh nghiệm, cấp  
bậc khác nhau (W. F. Messier, 1983), các nghiên cứu còn có thể so sánh giữa sinh viên với  
KTV (R. H. Ashton & Kramer, 1980).  
Vào những năm 1990, nghiên cứu về kỹ năng chuyên môn tập trung vào loại thông tin  
KTV sử dụng để ra quyết định. Nghiên cứu của Bedard và Biggs (1991) khám phá kỹ năng  
chung và kỹ năng về lĩnh vực cụ thể trong mối quan hệ với xét đoán. Thực hiện thử nghiệm cho  
ba nhóm, gồm các KTV có 5 năm kinh nghiệm, 1 năm kinh nghiệm và sinh viên chưa có kinh  
nghiệm, Frederick, Heiman-Hoffman, và Libby (1994) nhận thấy kinh nghiệm là yếu tố quan  
trọng ảnh hưởng đến JDM của KTV bởi cho rằng kiến thức của KTV phụ thuộc vào mức độ  
kinh nghiệm cá nhân. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy các sinh viên không thể phân loại  
các sai sót dựa trên chu trình hay mục tiêu kiểm toán, bởi kiến thức này có được từ trải nghiệm  
thực tế. Kết quả thí nghiệm giữa các KTV với cấp bậc khác nhau (gồm KTV chính, chủ nhiệm  
kiểm toán và chủ phần hùn), Shelton (1999) đã chỉ ra yếu tố kinh nghiệm đã ảnh hưởng đến xét  
đoán của KTV về giả định hoạt động liên tục trong bối cảnh có thông tin không thích hợp.  
Sau đó các nghiên cứu đã mở rộng sang khả năng lựa chọn thông tin, kỹ năng chuyên  
Nguyễn Thị Thu Hiền. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), ...-...  
môn và kiến thức về nhiệm vụ kiểm toán cụ thể. KTV nhiều kinh nghiệm hơn có thể giải quyết  
các vấn đề phức tạp tốt hơn KTV ít kinh nghiệm nhờ có cấu trúc kiến thức tốt hơn (Lehmann  
& Norman, 2006). Trong bối cảnh BCTC có khả năng khai báo cao lợi nhuận, KTV có kinh  
nghiệm về gian lận cụ thể đã đưa ra các xét đoán về gian lận tốt hơn KTV chưa được trải nghiệm  
(Rose, 2007), kinh nghiệm tác động đến mối quan hệ giữa cấu trúc tài liệu và khả năng nhận  
diện điểm yếu về kiểm soát nội bộ của người rà soát (Agoglia, Hatfield, & Brazel, 2009).  
Thập niên gần đây các nghiên cứu tiếp tục khai thác bối cảnh nhiệm vụ kiểm toán phức  
tạp và môi trường kiểm toán. Khi xem xét các yếu tố gồm tính phức tạp của nhiệm vụ, kinh  
nghiệm và sự nỗ lực của KTV tác động đến JDM, Alissa, Capkun, Jeanjean, và Suca (2014)  
cho thấy tính phức tạp làm giảm, nỗ lực làm tăng kết quả JDM của KTV, khi tính phức tạp cao  
yếu tố kinh nghiệm làm mạnh hơn tác động của yếu tố nỗ lực. Gần đây hơn, Smith, Tayler, và  
Prawitt (2016) nghiên cứu yếu tố kinh nghiệm tác động đến tính nhạy cảm của KTV đối với hệ  
quả lựa chọn thông tin có tác động tiềm tàng đến tính hữu hiệu và hiệu quả của kiểm toán.  
Trong thử nghiệm với một khách hàng giả định, khi quan sát các KTV đánh giá khả năng tổn  
thất hàng tồn kho, Smith và cộng sự (2016) nhận thấy với môi trường rủi ro pháp lý cao, các  
KTV ít kinh nghiệm nhạy cảm hơn với hệ quả lựa chọn thông tin.  
(iii) Sử dụng các trợ giúp ra quyết định  
Theo tổng hợp của W. Messier (1995), trợ giúp ra quyết định là kỹ thuật, thủ tục hỗ trợ  
KTV ra quyết định, có lịch sử phát triển lâu dài, từ bảng tính đơn giản để xác định cỡ mẫu đến  
hệ thống phức tạp dựa vào máy tính để tư vấn rủi ro.  
Những năm 1980, các nghiên cứu tập trung vào các trợ giúp đơn giản, như hình thức  
trình bày dữ liệu. Bằng cách so sánh phản ứng của các KTV với các thông tin được trình bày  
cấu trúc chặt chẽ và với thông tin được sắp xếp đơn giản, Boritz (1985) cho thấy có sự ảnh  
hưởng của kỹ thuật trình bày dữ liệu đến xét đoán của KTV trong lập kế hoạch kiểm toán.  
J. C. Anderson, Kaplan, và Reckers (1997) đã kiểm định ảnh hưởng sự trợ giúp của  
danh sách liệt kê sai sót đến việc đánh giá các sai sót của KTV. Kết quả của nghiên cứu cho  
thấy việc tập trung giải thích các sai sót từ danh sách trợ giúp đã làm tăng đánh giá chính xác  
sai sót của KTV.  
Với việc sử dụng dữ liệu khảo sát, Bell và Carcello (2000) chứng minh trợ giúp đơn  
giản cũng giúp KTV phát hiện gian lận. Kết quả nghiên cứu của Bedard và Graham (2002) chỉ  
ra các trợ giúp đã giúp KTV nhận diện được rủi ro liên quan đến khách hàng nhiều hơn. Gần  
đây các nghiên cứu tập trung khám phá các biến tiềm ẩn về động cơ, nỗ lực, như Stuart và  
Prawitt (2012), hay về khả năng gợi nhớ và ghi nhận trong nghiên cứu của He, Kothari, Xiao,  
và Zuo (2018).  
3.1.2. Yếu tnhim vkim toán  
Các kiểm toán viên thực hiện nhiệm vụ khác nhau để hình thành ý kiến về Báo Cáo Tài  
Chính (BCTC) (Nelson & Tan, 2005). Giai đoạn trước 2010, ban đầu các nghiên cứu thường  
phân biệt nhiệm vụ đơn giản và phức tạp, xem xét nhiệm vụ đánh giá rủi ro ảnh hưởng như thế  
nào đến JDM của KTV, sau đó khai thác chi tiết hơn các nhiệm vụ trải khắp cuộc kiểm toán.  
Tính phức tạp của nhiệm vụ kiểm toán.  
Khi tổng hợp lý thuyết kế toán, quản trị và tâm lý học, Bonner (1994) đã đề xuất mô  
hình xem xét tính phức tạp của nhiệm vụ ảnh hưởng đến kết quả xét đoán của KTV. Nhà nghiên  
Nguyễn Thị Thu Hiền. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), ...-...  
cứu sử dụng mô hình này phân tích lại các xét đoán của KTV về phân tích tỷ số và giả định  
hoạt động liên tục trong các nghiên cứu trước. Kết quả cho thấy tính phức tạp làm giảm kết quả  
xét đoán của KTV.  
Prawitt (1995) đã khám phá tiếp cận kiểm toán cấu trúc ảnh hưởng như thế nào đến việc  
phân công nguồn lực của chủ nhiệm kiểm toán trong môi trường phức tạp. Sử dụng thử nghiệm  
với sai sót về hàng tồn kho ở hai mức độ phức tạp khác nhau, nghiên cứu của Chung và Monroe  
(2001) cho thấy với nhiệm vụ đơn giản, KTV nam xác định chính xác sai sót hơn KTV nữ,  
ngược lại, khi nhiệm vụ phức tạp, KTV nữ chỉ ra sai sót chính xác hơn KTV nam. Theo nghiên  
cứu Tan, Ng, và Mak (2002), trách nhiệm giải trình và kiến thức là các biến đại diện cho các  
kỹ năng điều tiết mối quan hệ giữa tính phức tạp và kết quả JDM của KTV.  
Nhiệm vụ đánh giá rủi ro  
Giải thích của các KTV cao cấp là khác nhau khi ra quyết định chấp nhận khách hàng  
dựa trên đánh giá rủi ro rủi ro hợp đồng trong bối cảnh vừa mong muốn tăng thêm khách hàng,  
nhưng tránh được khách hàng rủi ro. Ayers và Kaplan (1998) khám phá sự khác biệt giữa hai  
nhóm chủ phần hùn rà soát và phụ trách cuộc kiểm toán, và kết quả cho thấy chủ phần hùn rà  
soát thận trọng hơn trong đánh giá tài chính khách hàng bởi có kinh nghiệm hơn. Ngoài ra, cảm  
nhận của nhóm đối tượng thứ nhất về hậu quả cao khi chấp nhận khách hàng rủi ro là cao hơn  
nhóm sau và tính chính trực của khách hàng cũng ảnh hưởng mạnh đến kết quả xét đoán. Để  
khám phá sự khác biệt giữa chủ phần hùn và chủ nhiệm kiểm toán trong đánh giá rủi ro và lập  
kế hoạch, Houston, Peters, và Pratt (2005) đã mở rộng mô hình phí kiểm toán bằng cách bổ  
sung yếu tố thứ ba là rủi ro kinh doanh. Kết quả nghiên cứu này cho thấy rủi ro kinh doanh bao  
gồm ít nhất ba yếu tố là rủi ro kiểm toán có thể chấp nhận được, rủi ro pháp lý và rủi ro phi  
pháp lý.  
Từ năm 2011 đến nay, lý thuyết JDM mở rộng cho nhiều nhiệm vụ kiểm toán khác  
nhau, từ đơn giản như tìm hiểu kiểm soát nội bộ, hay phức tạp như kiểm toán các ước tính kế  
toán, rà soát hồ sơ. Nhiệm vụ xét đoán sai sót trên BCTC tập trung vào các vấn đề như ước tính  
kế toán (Asbahr & Ruhnke, 2019), tổn thất hàng tồn kho, tài sản cố định, lợi thế thương mại  
(Stevens, Moroney, & Webster, 2019; Smith et al., 2016), giá trị hợp lý (Griffin, 2014), ghi  
nhận doanh thu (Mubako & O'Donnell, 2018). Kiểm soát nội bộ là nhiệm vụ đưa vào các thử  
nghiệm trong nghiên cứu JDM sớm nhất, đến nay nhiệm vụ này vẫn tiếp tục được đề cập ở cả  
mức độ tổng thể và quy trình, song song với tìm hiểu phân tích chiến lược kinh doanh của nhà  
quản trị (Kochetova-Kozloski & Messier, 2011). Nhiệm vụ đánh giá rủi ro cũng được các  
nghiên cứu mở rộng sang phân tích rủi ro kinh doanh khách hàng, rủi ro gian lận, như Dennis  
và Johnstone (2018), Simon, Smith, và Zimbelman (2018). Các nhiệm vụ về thu thập bằng  
chứng (thủ tục phân tích) và hình thành ý kiến (giả định hoạt động liên tục) cũng được chú ý,  
điển hình như nghiên cứu của Kim, Mayorga, và Harding (2017), Defond, Francis, và Hallman  
(2018). Nghiên cứu đầu tiên về nhiệm vụ lập và rà soát hồ sơ là Mullis và Hatfield (2018), về  
mức trọng yếu là W. F. Messier và Schmidt (2017). Như vậy, trong thời gian gần đây, lý thuyết  
JDM được các nhà nghiên cứu đã khai thác cả đặc điểm và nội dung nhiệm vụ kiểm toán.  
3.1.3. Yếu tố môi trường  
Theo Bonner (1999), yếu tố môi trường phản ánh các điều kiện, bối cảnh mà KTV thực  
hiện nhiệm vụ, nhưng không liên quan đến bất cứ nhiệm vụ cụ thể nào. Như vậy, yếu tố này  
không làm thay đổi yêu cầu của nhiệm vụ, mà chỉ thay đổi mức độ nỗ lực của người thực hiện,  
bao gồm quản trị công ty, kiểm soát nội bộ, áp lực về thời gian, trách nhiệm giải trình và yếu  
Nguyễn Thị Thu Hiền. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), ...-...  
tố khác, như tương tác giữa các KTV.  
(i) Quản trị công ty và kiểm soát nội bộ của khách hàng  
Quản Trị Công Ty (QTCT) và kiểm soát nội bộ là các yếu tố quan trọng trong xét đoán  
về rủi ro (Sharma, Boo, & Sharma, 2008). Quản trị công ty thường là trung tâm của kiểm soát  
nội bộ, ảnh hưởng đến phạm vi, thời gian thực hiện các nhiệm vụ của KTV (Fama & Jensen,  
1983).  
Sang thập niên 2000, lý thuyết JDM trong kiểm toán về yếu tố môi trường quản trị  
công ty chuyển từ cảm nhận vai trò giám sát của QTCT sang xem xét sự ảnh hưởng cơ chế quản  
trị đến kiểm toán. Nghiên cứu của DeZoort và Salterio (2001) khám phá ảnh hưởng của yếu tố  
kinh nghiệm quản trị công ty của thành viên Ủy ban kiểm toán và kiến thức về kiểm toán, về  
BCTC đến xét đoán của họ liên quan đến bất đồng giữa KTV và nhà quản lý. Kết quả cho thấy  
các thành viên càng độc lập, có kiến thức về kiểm toán và BCTC càng cao, càng ủng hộ KTV  
trong tình huống có mâu thuẫn với người quản lý. Cohen, Krishnamoorthy, và Wright (2002)  
cho rằng KTV chính và chủ nhiệm kiểm toán đã sử dụng thông tin quản trị công ty để ra quyết  
định kiểm toán. Nghiên cứu của R. C. Anderson, Mansi, và Reeb (2004) tập trung vào đặc điểm  
của Hội đồng quản trị ảnh hưởng đến tính trung thực của BCTC trong bối cảnh xem xét khoản  
nợ phải trả. Kết quả nghiên cứu Sharma và cộng sự, 2008 gợi ý khi QTCT mạnh, KTV dễ dàng  
chấp nhận khách hàng bởi khi đó rủi ro kiểm soát thấp.  
Sau năm 2010, các nghiên cứu quan tâm nhiều hơn đến đặc điểm chiến lược của khách  
hàng (Kochetova-kozloski, Messier Jr, & Eilifsen, 2011), động cơ, phong cách của nhà quản trị  
(Fu, Tan, & Zhang, 2011; J. O. Brown & Popova, 2015) và văn hóa doanh nghiệp (Fukukawa  
& Mock, 2011).  
(ii) Áp lực  
Yếu tố áp lực ảnh hưởng đến kết quả JDM bao gồm áp lực về thời gian, tài chính, áp  
lực từ chính khách hàng đối với KTV. Chủ đề này được quan tâm từ những năm 1980 và đến  
nay các nhà nghiên cứu kiểm toán vẫn còn quan tâm.  
Khi xem xét cảm nhận của KTV về mối quan hệ giữa áp lực thời gian với việc phát hành  
báo cáo kiểm toán sớm, Alderman và Deitrick (1982) chỉ ra tồn tại mối quan hệ này ở các tổ  
chức lớn. Nghiên cứu của Kelley và Margheim (1990) khảo sát tác động của áp lực thời gian  
đối với sự rối loạn hành vi của KTV và kết quả cho thấy đa số KTV khi ký sớm các bước trong  
chương trình kiểm toán dẫn đến thực hiện công việc dưới mức phải làm một cách hợp lý, hiểu  
sai nguyên tắc kế toán, đánh giá hời hợt các tài liệu của khách hàng và/hoặc chấp nhận các giải  
thích chưa rõ ràng của khách hàng.  
Lee chứng minh rằng cho dù có áp lực về thời gian, KTV mới thường hy sinh việc giải  
trí và thời gian học tập để đảm bảo thực hiện đúng nhiệm vụ kiểm toán (B. Lee, 2002). Xem  
xét áp lực nắm bắt cơ hội kinh doanh, Moreno và Bhattacharjee (2003) chỉ ra KTV cấp thấp bị  
ảnh hưởng bởi áp lực này.  
Khi xét áp lực thời gian, áp lực từ phía khách hàng với biến điều tiết chỉ số thông minh  
về cảm xúc ảnh hưởng đến kết quả JDM, Yang, Brink, và Wier (2018) nhận thấy biến điều tiết  
này làm giảm căng thẳng của KTV một cách hiệu quả. Gần đây hơn, các nghiên cứu tập trung  
xem xét yếu tố áp lực, nhưng cho kết quả khác nhau: Asbahr và Ruhnke (2019) không tìm thấy  
bằng chứng ảnh hưởng của áp lực từ khách hàng: W. F. Messier và Schmidt (2017) cung cấp  
bằng chứng về mối quan hệ giữa điều chỉnh sai sót và áp lực; Tsunogaya, Sugahara, và Chand  
Nguyễn Thị Thu Hiền. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), ...-...  
(2017) chỉ ra áp lực nghe lời chủ nhiệm kiểm toán đã ảnh hưởng tiêu cực đến xét đoán của  
KTV.  
(iii) Trách nhiệm giải trình các yếu tố khác  
Trách nhiệm giải trình trách nhiệm của cá nhân về các quyết định đối với nhiều bên  
liên quan, như giám sát viên, khách hàng, đối tượng khác, từ đó thúc đẩy chính cá nhân nỗ lực  
hơn khi thực hiện nhiệm vụ và đây là một yếu tố có ảnh hưởng đến kết quả xét đoán của KTV  
(Libby & Luft, 1993).  
Khi xem xét mối liên hệ giữa kết quả xét đoán của KTV với áp lực thời gian và trách  
nhiệm giải trình, kết quả nghiên cứu Glover (1997) cho thấy áp lực thời gian có ảnh hưởng,  
nhưng trách nhiệm giải trình lại không ảnh hưởng.  
Nghiên cứu của Wilks (2002) cung cấp bằng chứng về việc biết trước kỳ vọng của  
khách hàng khiến xét đoán của KTV có thiên lệch hướng sang kỳ vọng này. Bagley chứng minh  
được sự thay đổi của các mức độ giải trình, tính phức tạp của nhiệm vụ ảnh hưởng tiêu cực đến  
cảm xúc và tác động đến việc thực hiện nhiệm vụ (Bagley, 2010). Cụ thể, kết quả của nghiên  
cứu này cho thấy kinh nghiệm của KTV khi đối mặt với đa trách nhiệm giải trình ảnh hưởng  
tiêu cực hơn các KTV với một trách nhiệm giải trình hay tình huống không có trách nhiệm giải  
trình.  
Kết quả nghiên cứu của Mohd Iskandar, Nelly Sari, Mohd‐Sanusi, và Anugerah (2012)  
cũng tìm thấy sự ảnh hưởng tích cực của trách nhiệm giải trình đến kết quả xét đoán và ra quyết  
định của KTV. Sử dụng biến đo lường trách nhiệm giải trình là thực hiện yêu cầu của nhà điều  
hành về việc báo cáo các vấn đề quan trọng, Asbahr và Ruhnke (2019) cung cấp bằng chứng  
về ảnh hưởng trách nhiệm giải trình đến hành động hoài nghi của KTV.  
Bên cạnh các yếu tố trên, các yếu tố tương tác giữa con người, như tương tác giữa các  
KTV, tương tác giữa KTV với khách hàng, hay đặc điểm cuộc kiểm toán và công ty kiểm toán  
cũng được đưa vào lý thuyết JDM gần đây, điển hình có các nghiên cứu của Carpenter và  
Reimers (2013), Wright và Bhattacharjee (2018), He và cộng sự (2018), Bennett và Hatfield  
(2018). Carpenter và Reimers (2013) đã xem xét sự ảnh hưởng tương tác giữa chủ phần hùn và  
KTV trong quá trình xét đoán rủi ro gian lận và kết quả cho thấy sự nhắc nhở của chủ phần hùn  
có ảnh hưởng đến kết quả xét đoán của KTV. Khi xem xét đặc điểm cuộc kiểm toán, Wright  
và Bhattacharjeen (2018) đã tập trung vào vấn đề tư vấn chuyên gia, vận dụng lý thuyết tâm lý  
học nhấn mạnh nhận thức của KTV về sự tư vấn này và kết quả chỉ ra các KTV không nhận  
biết trước sự tham gia của chuyên gia sẽ nỗ lực thấp hơn và có sự khác biệt về kết quả JDM khi  
chất lượng tư vấn khác nhau. Tuy nhiên, sẽ không có sự khác biệt này khi KTV nhận biết trước  
về sự tham gia của chuyên gia. He và cộng sự (2018) chỉ ra có ảnh hưởng của suy thoái kinh tế  
lâu dài đối với JDM của KTV.  
3.2. Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong lý thuyết JDM về kiểm toán  
Trong quá trình sàng lọc các nghiên cứu để có được danh mục 244 nghiên cứu công bố  
trên 10 tạp chí được lựa chọn cho tổng hợp lý thuyết JDM về kiểm toán cho thấy ngoại trừ số  
ít sử dụng dữ liệu thứ cấp, khảo sát, hầu hết các nghiên cứu sử dụng phương pháp thử nghiệm  
(Experimental method). Phương pháp này bao gồm nghiên cứu thực địa (Field experiment) và  
nghiên cứu phòng thí nghiệm (Lab experiment). Tuy vậy, rất ít các nghiên cứu sử dụng phương  
pháp thực địa, nên chủ yếu lý thuyết này sử dụng phương pháp phòng thí nghiệm. Theo  
Bloomfield, Nelson, và Soltes (2016), phương pháp thử nghiệm thích hợp cho nghiên cứu cần  
Nguyễn Thị Thu Hiền. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), ...-...  
điều khiển biến độc lập. Chính vì vậy, phương pháp này có lợi thế giúp khám phá các biến tiềm  
ẩn tác động đến JDM trong kiểm toán. Trong đó, phương pháp thực địa sẽ cho kết quả đúng với  
môi trường thực tế, nên không phải điều khiển biến phụ thuộc, nhưng trên thực tế rất khó có  
điều kiện để áp dụng phương pháp này, do nhà nghiên cứu không thể tham gia trực tiếp các  
nhiệm vụ kiểm toán trên thực tế, trừ khi chính các công ty kiểm toán thực hiện nghiên cứu. Đây  
chính là lý do giải thích tại sao hầu hết các nghiên cứu sử dụng phương pháp phòng thí nghiệm.  
Điểm mạnh của phương pháp này giúp cho các nghiên cứu xác định các biến độc lập  
(nguyên nhân) ảnh hưởng đến thực hiện xét đoán và ra quyết định của KTV, kể cả ảnh hưởng  
tích cực và tiêu cực.  
Hạn chế của phương pháp này đã được các nghiên cứu tổng kết tập trung vào các điểm  
sau. Thứ nhất tập trung ở tính tổng quát hóa kết quả nghiên cứu. Giới hạn này một phần do các  
thí nghiệm thường được thiết kế cho nhiệm vụ kiểm toán riêng lẻ, khá khác biệt nên khó tổng  
quát hóa cho đa số các nhiệm vụ. Thứ hai, cỡ mẫu chọn trong các thử nghiệm thường khá thấp  
(vài chục đối tượng) và lựa chọn mẫu không ngẫu nhiên là nguyên nhân khiến hạn chế khả năng  
tổng quát hóa kết quả nghiên cứu cho tổng thể. Cuối cùng, việc thực hiện môi trường thiết lập  
giả định sẽ ảnh hưởng nhất định đến tâm lý đối tượng tham gia thử nghiệm dẫn đến dữ liệu thu  
thập giảm độ tin cậy.  
4. Kết lun  
Nghiên cứu JDM trong kiểm toán có lịch sử lâu dài, góp phần quan trọng vào lý thuyết  
kiểm toán, lý thuyết chung về JDM, cung cấp nhiều khuyến nghị giá trị cho nhà lập quy và các  
công ty kiểm toán. Lý thuyết JDM tham chiếu nghiên cứu về quá trình xử lý thông tin và hành  
vi ra quyết định (Einhorn & Hogarth, 1981). Nghiên cứu về yếu tố xác định JDM trong kiểm  
toán chủ yếu sử dụng phương pháp thí nghiệm với đối tượng tham gia chủ yếu là các KTV, tuy  
nhiên, trong một số trường hợp có thể sử dụng sinh viên tốt nghiệp hay các học viên cao học  
MBA chuyên ngành kiểm toán thay thế. Với đặc thù này, nghiên cứu JDM trong kiểm toán mở  
ra nhiều cơ hội cho các nhà nghiên cứu, nhưng cũng không ít thách thức khi thực hiện.  
Lợi thế lớn của các nghiên cứu thí nghiệm là người nghiên cứu trực tiếp thiết lập môi  
trường để thực hiện thí nghiệm, nên điều khiển, kiểm soát được các biến độc lập lựa chọn. Nhờ  
đó đánh giá được ảnh hưởng của biến độc lập đến biến phụ thuộc cùng với việc kiểm soát các  
biến gây nhiễu. Các nghiên cứu thí nghiệm cũng có ưu thế cho kiểm định nhiều biến độc lập  
trong môi trường kế toán, kiểm toán, chẳng hạn trợ giúp ra quyết định hay một chuẩn mực mới  
(Trotman et al., 2011). Nhiệm vụ xét đoán và ra quyết định của kiểm toán rất đa dạng, phức  
tạp, chịu tác động nhiều yếu tố, nên nghiên cứu thí nghiệm giúp cho dễ dàng khám phá các ảnh  
hưởng tương tác của nhiều yếu tố cùng tồn tại trong môi trường tự nhiên bằng cách chỉ ra các  
ảnh hưởng điều kiện dựa vào mức độ của các yếu tố khác (Joe, 2003).  
Mặc dù có điểm mạnh, nhưng nghiên cứu thí nghiệm cũng có hạn chế, mà một trong  
c hạn chế là lấy mẫu. Qua kết quả tổng hợp lý thuyết này cho thấy nhiều nghiên cứu lựa chọn  
mẫu thuận tiện, cỡ mẫu nhỏ, thậm chí quá nhỏ. Điều này dẫn đến giới hạn khó tổng quát hóa  
được kết quả (Brewin et al., 1996). Để thực hiện một thực nghiệm giúp dự đoán được thực tế,  
cần phải chọn mẫu sao cho đại diện cho tổng thể và phân bố các đối tượng cho các nhóm nghiên  
cứu khác nhau trên cơ sở ngẫu nhiên (Duffy, 1985). Hạn chế tiếp theo của nghiên cứu thí nghiệm  
là các đối tượng trong môi trường thực nghiệm, nên có thể hành vi hay trả lời của đối tượng  
không theo cách tự nhiên do hệ quả của cảm giác được quan sát (Haughey, 1994). Vì vậy, kết  
quả trả lời của các đối tượng có thể khác biệt so với khi họ xét đoán hay ra quyết định ở môi  
Nguyễn Thị Thu Hiền. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), ...-...  
trường thực tế.  
Lý thuyết JDM trong kiểm toán đã trải qua gần nửa thế kỷ, đến nay vẫn được các nhà  
nghiên cứu kiểm toán quan tâm, qua đó cho thấy tầm quan trọng của lĩnh vực nghiên cứu này  
trong lý thuyết và thực hành kiểm toán. Để khắc phục các hạn chế trên, các nghiên cứu cần có  
quy mô mẫu lớn hơn, các đối tượng tham gia cần được chọn ngẫu nhiên và có các thuộc tính  
tổng thể nghiên cứu. Tương tự như vậy để tránh các đối tượng thực hiện theo cách mong muốn  
của các nhà nghiên cứu, khi thực hiện các thực nghiệm cần đảm bảo các đối tượng không nhận  
thức được kết quả dự đoán của nhà nghiên cứu. Để tạo môi trường thí nghiệm hiệu quả, cần  
thiết xây dựng môi trường giả định gần với thực tế nhất, các nhiệm vụ đưa vào thí nghiệm đảm  
bảo tăng tính khái quát của kết quả các nghiên cứu.  
Tài liệu tham khảo  
Agoglia, C. P., Hatfield, R. C., & Brazel, J. F. (2009). The effects of audit review format on  
review team judgments. AUDITING: A Journal of Practice & Theory, 28(1), 95-111.  
doi:10.2308/aud.2009.28.1.95  
Alderman, C. W., & Deitrick, J. W. (1982). Auditors’ perceptions of time budget pressures and  
premature sign-offs: A replication and extension. AUDITING: A Journal of Practice &  
Theory, 1(2), 54-68.  
Alissa, W., Capkun, V., Jeanjean, T., & Suca, N. (2014). An empirical investigation of the  
impact of audit and auditor characteristics on auditor performance. Accounting,  
Organizations and Society, 39(7), 495-510. doi:10.1016/j.aos.2014.06.003  
Anderson, J. C., Kaplan, S. E., & Reckers, P. (1997). The effects of interference and availability  
from hypotheses generated by a decision aid upon analytical procedures judgments.  
Behavioral Research in Accounting, 9, 1-20.  
Anderson, R. C., Mansi, S. A., & Reeb, D. M. (2004). Board characteristics, accounting report  
integrity, and the cost of debt. Journal of Accounting and Economics, 37(3), 315-342.  
doi:10.1016/j.jacceco.2004.01.004  
Asbahr, K., & Ruhnke, K. (2019). Real effects of reporting key audit matters on auditors'  
judgment and choice of action. International Journal of Auditing, 23(2), 165-180.  
doi:10.1111/ijau.12154  
Ashton, R. H., & Ashton, A. H. (1995). Perspectives on judgment and decision-making research  
in accounting and auditing. In R. H. Ashton & A. H. Ashton (Eds.), Judgment and  
decision-making research in accounting and auditing (pp. 3-25). New York, NY:  
Cambridge University Press  
Ashton, R. H., & Kramer, S. S. (1980). Students as surrogates in behavioral accounting  
research: Some evidence. Journal of Accounting Research, 18(1), 1-15.  
Ayers, S., & Kaplan, S. E. (1998). Potential differences between engagement and risk review  
partners and their effect on client acceptance judgments. Accounting Horizons, 12(2),  
139.  
Nguyễn Thị Thu Hiền. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), ...-...  
Bagley, P. L. (2010). Negative affect: A consequence of multiple accountabilities in auditing.  
AUDITING:  
A
Journal  
of  
Practice  
&
Theory,  
29(2),  
141-157.  
doi:10.2308/aud.2010.29.2.141  
Bedard, J. C., & Biggs, S. F. (1991). Pattern recognition, hypotheses generation, and auditor  
performance in an analytical task. Accounting Review, 66(3), 22-642.  
Bedard, J. C., & Graham, L. E. (2002). The effects of decision aid orientation on risk factor  
identification and audit test planning. AUDITING: A Journal of Practice & Theory,  
21(2), 39-56.  
Bell, T. B., & Carcello, J. V. (2000). A decision aid for assessing the likelihood of fraudulent  
financial reporting. AUDITING: A Journal of Practice & Theory, 19(1), 169-184.  
Bennett, G. B., & Hatfield, R. C. (2018). Staff auditors' proclivity for computer-mediated  
communication with clients and its effect on skeptical behavior. Accounting,  
Organizations and Society, 68-69, 42-57. doi:10.1016/j.aos.2018.05.003  
Bloomfield, R., Nelson, M. W., & Soltes, E. (2016). Gathering data for archival, field, survey,  
and experimental accounting research. Journal of Accounting Research, 54(2), 341-395.  
Bonner, S. E. (1994). A model of the effects of audit task complexity. Accounting,  
Organizations and Society, 19(3), 213-234.  
Bonner, S. E. (1999). Judgment and decision-making research in accounting. Accounting  
Horizons, 13(4), 385.  
Boritz, J. E. (1985). The effect of information presentation structures on audit planning and  
review judgments. Contemporary Accounting Research, 1(2), 193-218.  
Brewin, T., Thornton, H., Bradley, C., McPherson, K., Gore, S., Silverman, W., & Altman, D.  
(1996). Patients' preferences and randomised trials. The Lancet, 347(9008), 1118-1119.  
Brown, J. O., & Popova, V. K. (2015). The interplay of management incentives and audit  
committee communication on auditor judgment. Behavioral Research in Accounting,  
28(1), 27-40. doi:10.2308/bria-51259  
Brown, V. L., Gissel, J. L., & Gordon Neely, D. (2016). Audit quality indicators: Perceptions  
of junior-level auditors. Managerial Auditing Journal, 31(8/9), 949-980.  
doi:10.1108/maj-01-2016-1300  
Butt, J. L. (1988). Frequency judgments in an auditing-related task. Journal of Accounting  
Research, 26(2), 315-330.  
Carpenter, T. D., & Reimers, J. L. (2013). Professional skepticism: The effects of a partner's  
influence and the level of fraud indicators on auditors' fraud judgments and actions.  
Behavioral Research in Accounting, 25(2), 45-69. doi:10.2308/bria-50468  
Chan, K. C., Seow, G. S., & Tam, K. (2009). Ranking accounting journals using dissertation  
citation analysis: A research note. Accounting, Organizations and Society, 34(6/7), 875-  
885.  
Choo, F., & Trotman, K. T. (1991). The relationship between knowledge structure and  
judgments for experienced and inexperienced auditors. Accounting Review, 66(3), 464-  
485.  
Nguyễn Thị Thu Hiền. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), ...-...  
Chung, J., & Monroe, G. S. (2001). A research note on the effects of gender and task complexity  
on an audit judgment. Behavioral Research in Accounting, 13(1), 111-125.  
Cohen, J., Krishnamoorthy, G., & Wright, A. M. (2002). Corporate governance and the audit  
process. Contemporary Accounting Research, 19(4), 573-594.  
Defond, M. L., Francis, J. R., & Hallman, N. J. (2018). Awareness of SEC Enforcement and  
Auditor Reporting Decisions. Contemporary Accounting Research, 35(1), 277-313.  
doi:10.1111/1911-3846.12352  
Dennis, S. A., & Johnstone, K. M. (2018). A natural field experiment examining the joint role  
of audit partner leadership and subordinates’ knowledge in fraud brainstorming.  
Accounting, Organizations and Society, 66, 14-28. doi:10.1016/j.aos.2018.02.001  
DeZoort, F. T., & Salterio, S. E. (2001). The effects of corporate governance experience and  
financial‐reporting and audit knowledge on audit committee members' judgments.  
AUDITING: A Journal of Practice & Theory, 20(2), 31-47.  
Duffy, M. E. (1985). Designing nursing research: the qualitative‐quantitative debate. Journal  
of advanced nursing, 10(3), 225-232.  
Einhorn, H. J., & Hogarth, R. M. (1981). Behavioral decision theory: Processes of judgement  
and choice. Annual review of psychology, 32(1), 53-88.  
Fama, E. F., & Jensen, M. C. (1983). Separation of ownership and control. The journal of law  
and Economics, 26(2), 301-325.  
Frederick, D. M., Heiman-Hoffman, V. B., & Libby, R. (1994). The structure of auditors'  
knowledge of financial statement errors. Auditing, 13(1), 1-21.  
Frederick, D. M., & Libby, R. (1986). Expertise and auditors' judgments of conjunctive events.  
Journal of Accounting Research, 24(2), 270-290.  
Fu, H., Tan, H. T., & Zhang, J. (2011). Effect of auditor negotiation experience and client  
negotiating style on auditors' judgments in an auditor-client negotiation context.  
AUDITING: A Journal of Practice & Theory, 30(3), 225-237. doi:10.2308/ajpt-10114  
Fukukawa, H., & Mock, T. J. (2011). Audit risk assessments using belief versus probability.  
AUDITING:  
A
Journal  
of  
Practice  
&
Theory,  
30(1),  
75-99.  
doi:10.2308/aud.2011.30.1.75  
Gibbins, M. (1984). Propositions about the psychology of professional judgment in public  
accounting. Journal of Accounting Research, 22(1), 103-125.  
Glover, S. M. (1997). The influence of time pressure and accountability on auditors' processing  
of nondiagnostic information. Journal of Accounting Research, 35(2), 213-226.  
Griffin, J. B. (2014). The Effects of Uncertainty and Disclosure on Auditors' Fair Value  
Materiality Decisions. Journal of Accounting Research, 52(5), 1165-1193.  
doi:10.1111/1475-679x.12059  
Hammersley, M. (2006). Philosophy's contribution to social science research on education.  
Journal of Philosophy of Education, 40(2), 273-286.  
Nguyễn Thị Thu Hiền. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), ...-...  
Hatfield, R. C., Jackson, S. B., & Vandervelde, S. D. (2011). The effects of prior auditor  
involvement and client pressure on proposed audit adjustments. Behavioral Research in  
Accounting, 23(2), 117-130.  
Haughey, B. (1994). Evaluating quantitative research designs: Part 1. Critical care nurse, 14(5),  
100-102.  
He, X., Kothari, S., Xiao, T., & Zuo, L. (2018). Long-term impact of economic conditions on  
auditors' judgment. The Accounting Review, 93(6), 203-229.  
Hoffman, V. B., Joe, J. R., & Moser, D. V. (2003). The effect of constrained processing on  
auditors’ judgments. Accounting, Organizations and Society, 28(7/8), 699-714.  
doi:10.1016/s0361-3682(02)00068-5  
Houston, R. W., Peters, M. F., & Pratt, J. H. (2005). Nonlitigation risk and pricing audit  
services. AUDITING: A Journal of Practice & Theory, 24(1), 37-53.  
Joe, J. R. (2003). Why press coverage of a client influences the audit opinion. Journal of  
Accounting Research, 41(1), 109-133.  
Joe, J. R., & Vandervelde, S. D. (2007). Do auditor‐provided nonaudit services improve audit  
effectiveness? Contemporary Accounting Research, 24(2), 467-487.  
Kelley, T., & Margheim, L. (1990). The impact of time budget pressure, personality, and  
leadership variables on dysfunctional auditor behavior. Auditing-A Journal Of Practice  
& Theory, 9(2), 21-42.  
Kim, S., Mayorga, D. M., & Harding, N. (2017). Can I interrupt you? Understanding and  
minimizing the negative effects of brief interruptions on audit judgment quality.  
International Journal of Auditing, 21(2), 198-211. doi:10.1111/ijau.12089  
Knechel, W. R., & Payne, J. L. (2001). Additional evidence on audit report lag. AUDITING: A  
Journal of Practice & Theory, 20(1), 137-146.  
Kochetova-kozloski, N., Messier Jr, W. F., & Eilifsen, A. (2011). Improving auditors’ fraud  
judgments using a frequency response mode*. Contemporary Accounting Research,  
28(3), 837-858. doi:10.1111/j.1911-3846.2011.01067.x  
Kochetova-Kozloski, N., & Messier, W. F. (2011). Strategic analysis and auditor risk  
judgments. AUDITING: A Journal of Practice & Theory, 30(4), 149-171.  
doi:10.2308/ajpt-10147  
Lee, B. (2002). Professional socialisation, commercial pressures and junior staff's time-  
pressured irregular auditingA contextual interpretation. The British Accounting  
Review, 34(4), 315-333.  
Lee, H. (2012). Incentive contracts and time pressure on audit judgment performance.  
Managerial Auditing Journal, 27(3), 263-283. doi:10.1108/02686901211207492  
Lehmann, C. M., & Norman, C. S. (2006). The effects of experience on complex problem  
representation and judgment in auditing: An experimental investigation. Behavioral  
Research in Accounting, 18(1), 65-83.  
Libby, R., & Lewis, B. L. (1982). Human information processing research in accounting: The  
state of the art in 1982. Accounting, Organizations and Society, 7(3), 231-285.  
Nguyễn Thị Thu Hiền. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), ...-...  
Libby, R., & Luft, J. (1993). Determinants of judgment performance in accounting settings:  
Ability, knowledge, motivation, and environment. Accounting, Organizations and  
Society, 18(5), 425-450.  
Libby, R., & Tan, H.-T. (1994). Modeling the determinants of audit expertise. Accounting,  
Organizations and Society, 19(8), 701-716.  
Mala, R., & Chand, P. (2015). Judgment and decision‐making research in auditing and  
accounting: Future research implications of person, task, and environment perspective.  
Accounting Perspectives, 14(1), 1-50.  
Messier, W. (1995). Research in and development of audit decision aids. Judgment and  
Decision Making Research in Accounting and Auditing, 207-228.  
Messier, W. F. (1983). The effect of experience and firm type on materiality/disclosure  
judgments. Journal of Accounting Research, 21(2), 611-618.  
Messier, W. F., & Schmidt, M. (2017). Offsetting misstatements: The effect of misstatement  
distribution, quantitative materiality, and client pressure on auditors' judgments. The  
Accounting Review, 93(4), 335-357. doi:10.2308/accr-51954  
Mohd Iskandar, T., Nelly Sari, R., Mohd‐Sanusi, Z., & Anugerah, R. (2012). Enhancing  
auditors' performance. Managerial Auditing Journal, 27(5), 462-476.  
doi:10.1108/02686901211227959  
Moreno, K., & Bhattacharjee, S. (2003). The impact of pressure from potential client business  
opportunities on the judgments of auditors across professional ranks. AUDITING: A  
Journal of Practice & Theory, 22(1), 13-28.  
Mubako, G., & O'Donnell, E. (2018). Effect of fraud risk assessments on auditor skepticism:  
Unintended consequences on evidence evaluation. International Journal of Auditing,  
22(1), 55-64. doi:10.1111/ijau.12104  
Mullis, C. E., & Hatfield, R. C. (2018). The effects of multitasking on auditors’ judgment  
quality. Contemporary Accounting Research, 35(1), 314-333. doi:10.1111/1911-  
3846.12392  
Nelson, M., & Tan, H. T. (2005). Judgment and decision making research in auditing: A task,  
person, and interpersonal interaction perspective. AUDITING: A Journal of Practice &  
Theory, 24(s-1), 41-71.  
Prawitt, D. F. (1995). Staffing assignments for judgment-oriented audit tasks: The effects of  
structured audit technology and environment. Accounting Review, 70(3), 443-465.  
Rose, J. M. (2007). Attention to evidence of aggressive financial reporting and intentional  
misstatement judgments: Effects of experience and trust. Behavioral Research in  
Accounting, 19(1), 215-229.  
Sharma, D. S., Boo, E. F., & Sharma, V. D. (2008). The impact of non‐mandatory corporate  
governance on auditors’ client acceptance, risk and planning judgments. Accounting  
and Business Research, 38(2), 105-120.  
Shelton, S. W. (1999). The effect of experience on the use of irrelevant evidence in auditor  
judgment. The Accounting Review, 74(2), 217-224.  
Nguyễn Thị Thu Hiền. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), ...-...  
Simon, C. A., Smith, J. L., & Zimbelman, M. F. (2018). The influence of judgment  
decomposition on auditors' fraud risk assessments: Some trade-offs. The Accounting  
Review, 93(5), 273-291. doi:10.2308/accr-52024  
Smith, S. D., Tayler, W. B., & Prawitt, D. F. (2016). The effect of information choice on  
auditors' judgments and confidence. Accounting Horizons, 30(3), 393-408.  
Stevens, E., Moroney, R., & Webster, J. (2019). Professional skepticism: The combined effect  
of partner style and team identity salience. International Journal of Auditing, 23(2),  
279-291. doi:10.1111/ijau.12161  
Stuart, I. C., & Prawitt, D. F. (2012). Firm-level formalization and auditor performance on  
complex tasks. Behavioral Research in Accounting, 24(2), 193-210. doi:10.2308/bria-  
50113  
Tan, H. T., Ng, T. B. P., & Mak, B. W. Y. (2002). The effects of task complexity on auditors'  
performance: The impact of accountability and knowledge. AUDITING: A Journal of  
Practice & Theory, 21(2), 81-95.  
Trotman, K. T., Tan, H. C., & Ang, N. (2011). Fifty-year overview of judgment and decision-  
making research in accounting. Accounting & Finance, 51(1), 278-360.  
doi:10.1111/j.1467-629X.2010.00398.x  
Tsunogaya, N., Sugahara, S., & Chand, P. (2017). The impact of social influence pressures,  
commitment, and personality on judgments by auditors: Evidence from Japan. Journal  
of International Accounting Research, 16(3), 17-34.  
Waller, W. S., & Felix Jr, W. I. (1984). The auditor and learning from experience: Some  
conjectures. Accounting, Organizations and Society, 9(3/4), 383-406.  
Wilks, T. J. (2002). Predecisional distortion of evidence as a consequence of real‐time audit  
review. The Accounting Review, 77(1), 51-71.  
Wright, N. S., & Bhattacharjee, S. (2018). Auditors' use of formal advice from internal firm  
subject matter experts: The impact of advice quality and advice awareness on auditors'  
judgments. Contemporary Accounting Research, 35(2), 980-1003. doi:10.1111/1911-  
3846.12399  
Yang, L., Brink, A. G., & Wier, B. (2018). The impact of emotional intelligence on auditor  
judgment. International Journal of Auditing, 22(1), 83-97. doi:10.1111/ijau.12106  
pdf 16 trang Thùy Anh 16/05/2022 1640
Bạn đang xem tài liệu "Tổng hợp lý thuyết xét đoán và ra quyết định trong kiểm toán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftong_hop_ly_thuyet_xet_doan_va_ra_quyet_dinh_trong_kiem_toan.pdf