Tài liệu Tập huấn Bộ luật dân sự năm 2015

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO  
*
TÀI LIỆU TẬP HUẤN  
BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015  
Hà Nội, tháng 4 năm 2016  
1
* Lãnh đạo VKSNDTC duyệt tài liệu:  
Đ/c Nguyễn Thị Thủy Khiêm, Phó Viện trưởng VKSNDTC  
* Đơn vị chủ trì biên soạn tài liệu:  
Vụ Kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình,  
VKSNDTC;  
*Thành viên tham gia biên soạn tài liệu:  
- Hoàng Thị Quỳnh Chi – Phó Vụ trưởng Vụ 5, Kiểm sát viên cao cấp; Tổ  
trưởng.  
- Nguyễn Như Hùng - Tổng biên tập Tạp chí kiểm sát, Kiểm tra viên cao cấp.  
- Vũ Thị Hồng Vân – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học kiểm sát Hà Nội.  
2
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 20151  
(Tài liệu tập huấn trong ngành Kiểm sát nhân dân)  
Ngày 24/11/2015, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội Khóa XIII đã thông qua Bộ  
luật dân sự số 91/2015/QH13 (sau đây viết tắt là BLDS năm 2015). Ngày  
08/12/2015, Chủ tịch Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Lệnh số  
20/2015/L-CTN về việc công bố BLDS. Bộ luật này có hiệu lực từ ngày  
01/01/2017, thay thế Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 (sau đây viết tắt là BLDS  
năm 2005).2  
I. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG BỘ LUẬT  
DÂN SỰ NĂM 20153  
1. Mục tiêu  
Xây dựng BLDS thực sự trở thành luật chung của hệ thống pháp luật  
điều chỉnh các quan hệ xã hội được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý  
chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm giữa các bên tham gia; ghi nhận  
và bảo vệ tốt hơn các quyền của cá nhân, pháp nhân trong giao lưu dân sự; góp  
phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định  
môi trường pháp lý cho sự phát triển kinh tế - xã hội sau khi Hiến pháp năm  
2013 được ban hành.  
2. Quan điểm chỉ đạo  
Một là, thể chế hóa đầy đủ, đồng thời tăng cường các biện pháp để công  
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân  
trong các lĩnh vực của đời sống dân sự, cũng như những tư tưởng, nguyên tắc cơ  
bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về quyền sở hữu,  
quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các chủ thể thuộc mọi hình thức  
sở hữu và thành phần kinh tế đã được ghi nhận trong trong Nghị quyết Đại hội  
Đảng lần thứ XI, Nghị quyết số 48-NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW và đặc  
biệt là trong Hiến pháp năm 2013.  
Hai là, sửa đổi, bổ sung các quy định còn bất cập, hạn chế trong thực tiễn  
thi hành để bảo đảm Bộ luật dân sự thực sự phát huy được ba vai trò cơ bản là:  
1
Tài liệu này do các Báo cáo viên của VKSND tối cao biên soạn trên cơ sở các tài  
liệu của Ban soạn thảo, bài thuyết trình của các chuyên gia đã tham gia Ban soạn thảo, Tổ  
biên tập dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi), được Lãnh đạo VKSND tối cao phê duyệt để tập  
huấn, triển khai thi hành BLDS năm 2015 trong ngành Kiểm sát nhân dân.  
2
Bộ luật dân sự năm 1995 (được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995, có hiệu lực  
thi hành từ ngày 01/7/1996); Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 (được Quốc hội khóa XI, kỳ  
họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006; Bộ luật dân  
sự số 91/2015/QH13 (được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24/11/2015,  
có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2017).  
3 Theo Tờ trình Quốc hội số 390/TTr-CP ngày 12/10/2014 của Chính phủ về dự án Bộ  
luật dân sự (sửa đổi)  
3
(1) Tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm  
quyền dân sự của các các cá nhân, pháp nhân, đặc biệt là trong việc bảo vệ  
quyền, lợi ích của bên yếu thế, bên thiện chí trong quan hệ dân sự; hạn chế đến  
mức tối đa sự can thiệp của cơ quan công quyền vào việc xác lập, thay đổi,  
chấm dứt các quan hệ dân sự; (2) Tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sản xuất  
kinh doanh, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực xã hội, bảo đảm sự thông  
thoáng, ổn định trong giao lưu dân sự, góp phần phát triển nền kinh tế thị trường  
định hướng xã hội chủ nghĩa; (3) Là công cụ pháp lý hữu hiệu để thúc đẩy sự  
hình thành và phát triển các thiết chế dân chủ trong xã hội, góp phần xây dựng  
nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa;  
Ba là, xây dựng Bộ luật dân sự thành Bộ luật nền, có vị trí, vai trò là luật  
chung của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ được hình thành trên cơ sở  
bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm; có tính khái  
quát, tính dự báo và tính khả thi để một mặt, bảo đảm tính ổn định của Bộ luật,  
mặt khác, đáp ứng được kịp thời sự phát triển thường xuyên, liên tục của các  
quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự;  
Bốn là, bảo đảm tính kế thừa và phát triển các quy định còn phù hợp với  
thực tiễn của pháp luật dân sự, cũng như các giá trị văn hóa, tập quán, truyền  
thống đạo đức tốt đẹp của Việt Nam; có sự tham khảo kinh nghiệm xây dựng  
Bộ luật dân sự của một số nước, nhất là các nước có truyền thống pháp luật  
tương đồng với Việt Nam.  
II. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ  
NĂM 2015  
Bộ luật có 6 phần, 27 chương với 689 điều, bao gồm:  
Phần thứ nhất “Quy định chung” (kết cấu gồm 10 chương, 157 điều, từ  
Điều 1 đến Điều 157) quy định về phạm vi điều chỉnh, nguyên tắc cơ bản của  
pháp luật dân sự, mối quan hệ giữa BLDS với luật khác có liên quan và điều  
ước quốc tế, cơ chế pháp lý giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp không  
có quy định của pháp luật, xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự, địa vị  
pháp lý của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự, tài sản, giao dịch dân sự, đại  
diện, thời hạn và thời hiệu.  
Phần thứ hai “Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản” (kết cấu  
gồm 4 chương, 116 điều, từ Điều 158 đến Điều 273), quy định về nguyên tắc  
xác lập, thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, bảo vệ và giới hạn  
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, chiếm hữu, quyền sở hữu, quyền đối  
với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt.  
Phần thứ ba “Nghĩa vụ và hợp đồng” (kết cấu gồm 6 chương, 335 điều,  
từ Điều 274 đến Điều 608), quy định về căn cứ phát sinh, thực hiện nghĩa vụ và  
trách nhiệm dân sự, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giao kết, thực hiện và chấm  
dứt hợp đồng, một số hợp đồng thông dụng, hứa thưởng và thi có giải, thực hiện  
công việc không có ủy quyền, nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản,  
4
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật và trách nhiệm bồi thường thiệt  
hại ngoài hợp đồng và được kết cấu thành 6 chương  
Phần thứ tư “Thừa kế” (kết cấu gồm 4 chương, 54 điều, từ Điều 609  
đến Điều 662), quy định về quyền thừa kế, thời điểm, địa điểm mở thừa kế, di  
sản, người thừa kế, người quản lý di sản, từ chối nhận di sản, thời hiệu thừa kế,  
thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật, thanh toán, phân chia di sản và  
được  
Phần thứ năm “Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố  
nước ngoài” (kết cấu gồm 3 chương, 25 điều, từ Điều 663 đến Điều 687), quy  
định về xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước  
ngoài, pháp luật áp dụng đối với cá nhân, pháp nhân, đối với quan hệ tài sản,  
quan hệ nhân thân có yếu tố nước ngoài và được  
Phần thứ sáu “Điều khoản thi hành” (gồm Điều 688 và Điều 689).  
So với Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật giữ nguyên 82 điều, kế thừa  
và sửa đổi 573 điều, bổ sung mới 70 điều, bãi bỏ 122 điều; đáng chú ý là:  
Bổ sung Chương V “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ  
quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương trong quan hệ dân sự,  
Chương VII “Tài sản (quy định về tài sản ở Phần Tài sản và quyền sở  
hữu của Bộ luật dân sự năm 2005), Chương XII “Chiếm hữu”, Chương XIV  
“Quyền khác đối với tài sản”, Chương XVII “Hứa thưởng, thi có giải”; sửa đổi,  
bổ sung hoặc bãi bỏ một số chương, như Chương II - Những nguyên tắc cơ bản  
của BLDS năm 2005 được sửa đổi thành một điều “Các nguyên tắc cơ bản của  
pháp luật dân sự” (Điều 3); Chương VIII “Thời hạn”, Chương IX “Thời hiệu”  
của Bộ luật dân sự năm 2005 được quy định chung thành một chương (Chương  
X “Thời hạn và thời hiệu”)...  
III. NỘI DUNG MỚI CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015  
1. Xác định rõ vị trí, vai trò của Bộ luật dân sự với tư cách là “luật  
chung” của hệ thống pháp luật tư  
1.1. Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1)  
Tại Điều 1 của BLDS năm 2015 quy định phạm vi điều chỉnh của Bộ luật  
này là “Quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá  
nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp  
nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc  
lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)”.  
So sánh với BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 quy định khái quát và xác  
định rõ hơn bản chất của các quan hệ dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của  
BLDS đó là các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc  
lập về tài sản tự chịu trách nhiệm, gắn với quyền tài sản và quyền nhân thân  
phi tài sản; không liệt kê các loại quan hệ dân sự như BLDS năm 2005.  
5
1.2. Quy định thống nhất các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự  
(Điều 3)  
Điều 3 BLDS năm 2015 quy định 05 nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân  
sự, thể hiện nguyên lý cơ bản nhất của quan hệ dân sự và của pháp luật dân sự,  
bao gồm: (1) Nguyên tắc bình đẳng; (2) Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết,  
thỏa thuận; (3) Nguyên tắc thiện chí, trung thực; (4) Nguyên tắc tôn trọng lợi  
ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người  
khác; (5) Nguyên tắc tự chịu trách nhiệm dân sự. Việc quán triệt các nguyên tắc  
này nhằm bảo đảm tất cả quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân được Hiến pháp,  
pháp luật công nhận đều được tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện. Quyền  
dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì  
lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức  
khỏe của cộng đồng.  
So sánh với BLDS năm 2005, quy định về nguyên tắc cơ bản của pháp  
luật dân sự trong BLDS năm 2015 có tính bao quát hơn để phù hợp với tính đa  
dạng trong điều chỉnh các quan hệ dân sự, trong việc thiết lập nền tảng về chuẩn  
mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân trong đời sống dân sự và  
sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật dân sự.  
Về kỹ thuật lập pháp, toàn bộ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự  
chỉ ghi nhận trong 01 điều luật (BLDS năm 2005 quy định thành 01 chương -  
Chương II Phần thứ nhất - với 09 điều luật - từ Điều 4 đến Điều 13); đồng thời,  
chuyển quy định về “Căn cứ xác lập quyền, nghĩa vụ” không ghi nhận ở  
Chương “Nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự” để đưa về Chương “Xác  
lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự” nhằm bảo đảm phù hợp với nội dung.  
1.3. Quy định cụ thể về mối quan hệ giữa Bộ luật dân sự và luật khác  
có liên quan (Điều 4)  
Khẳng định rõ BLDS là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự. Luật  
khác có liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể không  
được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự được quy định trong  
BLDS, trường hợp luật khác có liên quan không quy định hoặc có quy định  
nhưng trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự thì quy định của  
BLDS được áp dụng. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của BLDS và  
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên về cùng  
một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.  
1.4. Sửa đổi, bổ sung quy định về tạo lập công cụ pháp lý trong giải  
quyết vụ việc dân sự khi không có quy định của pháp luật  
Bên cạnh kế thừa, phát triển quy định về áp dụng tập quán, áp dụng tương  
tự pháp luật của BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã bổ sung quy định trường  
hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các  
bên không có thoả thuận, pháp luật không có quy định thì có thể áp dụng tập  
quán; trường hợp cũng không có tập quán thì áp dụng tương tự pháp luật;  
6
trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng những nguyên tắc  
cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ và lẽ công bằng để giải quyết vụ, việc dân sự.  
1.5. Bổ sung cơ chế pháp lý về thực hiện, bảo vệ quyền dân sự (Điều 9 -  
Điều 15)  
Thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, quy định của Hiến pháp năm 2013  
về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền dân sự, BLDS năm  
2015 quy định như sau:  
- Cá nhân, pháp nhân thực hiện quyền dân sự theo ý chí của mình nhưng  
không được trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và không  
được vi phạm quy định về “Giới hạn việc thực hiện quyền dân sự” của Bộ luật  
dân sự; việc cá nhân, pháp nhân không thực hiện quyền không phải là căn cứ  
làm chấm dứt quyền, trừ trường hợp luật có quy định khác (Điều 9).  
- Cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng quyền dân sự để gây thiệt hại  
cho người khác, để vi phạm các nghĩa vụ của mình hoặc để thực hiện mục đích  
khác trái pháp luật (khoản 1 Điều 10);  
- Cá nhân, pháp nhân có quyền tự bảo vệ quyền dân sự của mình theo quy  
định của pháp luật. Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác có trách nhiệm bảo vệ  
quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân. Trường hợp quyền dân sự bị vi phạm  
hoặc có tranh chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện theo pháp luật tố tụng  
tại Tòa án hoặc Trọng tài. Việc bảo vệ quyền dân sự theo thủ tục hành chính  
được thực hiện trong những trường hợp luật định. Quyết định giải quyết vụ việc  
theo thủ tục hành chính có thể được xem xét lại tại Tòa án. Tòa án không được  
từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng;  
trong trường hợp này, quy định về áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, nguyên  
tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ và lẽ công bằng được áp dụng để xem  
xét, giải quyết vụ việc (Điều 12 và Điều 14).  
So sánh với BLDS năm 2005, điểm mới nổi bật nhất của BLDS năm  
2015 liên quan đến việc bảo vệ quyền dân sự là quy định việc Tòa án không  
được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp  
dụng. Quy định này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp  
nhân, phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về tôn trọng, bảo vệ, bảo  
đảm quyền con người, quyền công dân; phù hợp với vai trò của Tòa án là cơ  
quan bảo vệ công lý. Đây là quy định tiến bộ, đã xác định rõ trách nhiệm của  
Nhà nước trong việc giải quyết mọi tranh chấp trong nhân dân, góp phần bảo  
đảm ổn định trật tự xã hội.  
1.6. Bên cạnh 05 nội dung cơ bản nêu trên, vị trí, vai trò “luật chung”  
của BLDS năm 2015 còn thể hiện trong các quy định về địa vị pháp lý của chủ  
thể trong quan hệ dân sự, giao dịch dân sự, đại diện, thời hiệu, quyền sở hữu,  
quyền khác đối với tài sản, trách nhiệm dân sự…  
2. Quy định về chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự có tính bao  
quát, thống nhất và bảo đảm phù hợp hơn với bảnchất của quan hệ dân sự,  
7
tạo cơ chế pháp lý thuận lợi, minh bạch hơn trong việc công nhận, thực  
hiện và bảo vệ quyền dân sự của các chủ thể.  
BLDS năm 2015 đã khẳng định rõ chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự  
chỉ gồm cá nhân pháp nhân, không có các chủ thể khác; đồng thời, quy  
định cụ thể về địa vị pháp lý của cá nhân, pháp nhân; quy định về việc tham gia  
quan hệ dân sự của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước ở  
trung ương và địa phương, hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư  
cách pháp nhân; cụ thể như sau:  
2.1. Về cá nhân  
- Không quy định người chưa đủ 06 tuổi là người không có năng lực hành  
vi dân sự; đồng thời, quy định cụ thể, linh hoạt hơn về xác lập, thực hiện giao  
dịch dân sự của người chưa thành niên (Điều 21);  
- Bổ sung quy định về “Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ  
hành vi” để áp dụng cho người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần  
mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất  
năng lực hành vi dân sự (Điều 23);  
- Chỉ quy định các quyền nhân thân liên quan đến việc xác định tư cách  
chủ thể của cá nhân trong các quan hệ dân sự và những quyền nhân thân gắn  
liền với lợi ích tinh thần của cá nhân, nhưng chưa được quy định cụ thể trong  
Hiến pháp, bao gồm các quyền liên quan đến có họ, tên, dân tộc, khai sinh, khai  
tử, quốc tịch, hình ảnh, tính mạng, sức khỏe, thân thể, danh dự, nhân phẩm, uy  
tín, hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác, xác định lại giới tính,  
chuyển đổi giới tính, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, quyền  
nhân thân trong hôn nhân và gia đình (Điều 25 - Điều 39);  
- Quy định cơ chế thực hiện giám hộ có tính khả thi hơn trong bảo đảm  
mục đích của việc giám hộ là thực hiện, bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích của người  
được giám hộ, như: quy định người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền  
lựa chọn người giám hộ cho mình (khoản 2 Điều 48); việc cử, chỉ định người  
giám hộ cho người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi trở lên thì phải xem xét  
nguyện vọng của người này (khoản 1 Điều 54); việc cử người giám hộ cho  
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phải được sự đồng ý  
của người đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của mình tại thời điểm yêu cầu;  
việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy  
định của pháp luật về hộ tịch, người giám hộ đương nhiên mà không đăng ký  
việc giám hộ thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ; tranh chấp về  
cử, chỉ định người giám hộ, người giám sát việc giám hộ do Tòa án quyết  
định...(Điều 46 - Điều 63).  
Như vậy, BLDS năm 2015 đã bổ sung quy định nhiều cơ chế mới, hợp lý  
để bảo vệ tốt hơn quyền của những người yếu thế về năng lực hành vi dân sự,  
đặc biệt là chế độ giám hộ đối với người chưa thành niên, người mất năng lực  
hành vi dân sự và người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Các quy  
8
định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là những nội dung  
hoàn toàn mới của BLDS năm 2015 so với BLDS hiện hành.  
- Về quyền nhân thân của cá nhân (từ Điều 25 đến Điều 39), để cụ thể  
hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và  
bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong lĩnh  
vực dân sự, BLDS năm 2015 đã hoàn thiện các quy định quyền nhân thân của  
cá nhân, nhất là trong việc tôn trọng, công nhận và bảo vệ quyền về họ tên, dân  
tộc, quốc tịch, hình ảnh, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín.  
Đặc biệt, lần này BLDS năm 2015 đã chính thức ghi nhận cá nhân được chuyển  
đổi giới tính theo quy định của luật (Điều 37). Đây là một nội dung hoàn toàn  
mới, thay đổi căn bản so với quy định trước đây4. Theo Điều 37 BLDS năm  
2015, “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá  
nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo  
quy định của pháp luật về hộ tịch; có các quyền nhân thân phù hợp với giới tính  
theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan”. Như vậy, mặc dù  
BLDS năm 2015 đã quy định việc chuyển đổi giới tính nhưng phải chờ cho tới  
khi Quốc hội ban hành Luật về chuyển đổi giới tính thì các cá nhân mới được  
thực hiện việc chuyển đổi giới tính.  
2.2. Về pháp nhân (Điều 74 - Điều 96)  
Cụ thể hóa nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về quyền lập hội,  
quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng của các chủ thể thuộc các thành phần  
kinh tế…; đồng thời, để góp phần “hiện thực hóa” địa vị pháp lý của các chủ thể  
này trong các quan hệ dân sự, BLDS năm 2015 quy định mọi cá nhân, pháp nhân  
đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác (khoản 2  
Điều 74). Pháp nhân được thành lập theo sáng kiến của cá nhân, pháp nhân hoặc  
theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Pháp nhân phải đăng ký  
hoạt động trong trường hợp pháp luật quy định. Đăng ký pháp nhân bao gồm đăng  
ký thành lập, đăng ký thay đổi và đăng ký khác theo quy định của pháp luật. Việc  
đăng ký pháp nhân phải được công bố công khai (Điều 82).  
Mặt khác, để bao quát, dự báo được sự phát triển đa dạng của pháp nhân  
trong đời sống dân sự, bảo đảm sự bình đẳng về tư cách chủ thể giữa các pháp  
nhân khi tham gia quan hệ dân sự, căn cứ vào tiêu chí mục đích thành lập và hoạt  
động của pháp nhân, BLDS năm 2015 quy định 02 loại pháp nhân, gồm: (1)  
Pháp nhân thương mại (pháp nhân hoạt động vì mục tiêu chính là tìm kiếm lợi  
nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên- Điều 75); và (2) Pháp nhân  
phi thương mại (là pháp nhân không có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận  
hoặc nếu có lợi nhuận thì cũng không được phân chia lợi nhuận đó cho các thành  
viên - Điều 76). Pháp nhân được thành lập theo pháp luật Việt Nam là pháp  
nhân Việt Nam.  
4
Khoản 1 Điều 4 Nghị định 88/2008/NĐ-CP quy định nghiêm cấm việc chuyển đổi  
đối với những người đã định hình, hoàn thiện về giới tính.  
9
Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên  
hoặc đại diện của sáng lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp  
nhân, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.  
2.3. Về sự tham gia của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các cơ  
quan nhà nước ở trung ương và ở địa phương trong quan hệ dân sự (Điều 76  
và từ Điều 97 đến Điều 100)  
BLDS năm 2015 quy định: Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, cơ  
quan nhà nước ở trung ương và ở địa phương bình đẳng với chủ thể khác là cá  
nhân, pháp nhân khi tham gia quan hệ dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo  
quy định của BLDS; đồng thời, quy định những nội dung cơ bản về địa vị pháp  
lý, đại diện tham gia quan hệ dân sự, trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ dân sự và  
về trách nhiệm trong quan hệ dân sự của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,  
cơ quan nhà nước ở trung ương và ở địa phương với Nhà nước, pháp nhân, cá  
nhân nước ngoài; khẳng định rõ, cơ quan nhà nước là pháp nhân phi thương  
mại.  
2.4. Về sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không  
có tư cách pháp nhân trong quan hệ dân sự (từ Điều 101 đến Điều 104)  
BLDS năm 2015 quy định hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có  
tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thông qua từng thành viên của mình  
hoặc thông qua cá nhân là người đại diện theo quy định của Bộ luật này, luật  
khác có liên quan. Các thành viên có thể thỏa thuận cử người đại diện tham gia,  
thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự vì lợi ích chung. Riêng đối với hộ gia đình sử  
dụng đất thì việc xác định chủ thể của quan hệ dân sự có sự tham gia của đối  
tượng này được xác định theo quy định của Luật Đất đai; đồng thời, BLDS năm  
2015 cũng quy định những nội dung cơ bản về tài sản chung, trách nhiệm dân  
sự của thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp  
nhân  
3. Quy định bao quát, minh bạch hơn về tài sản trong giao lưu dân sự  
(Chương IV, từ Điều 105 đến Điều 115)  
Để bảo đảm tính bao quát, minh bạch, công khai, huy động và phát huy  
tối đa các nguồn lực vật chất trong xã hội, BLDS năm 2015 đã bổ sung quy định  
tài sản có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất  
động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài  
sản hình thành trong tương lai (Điều 105).  
Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là bất động sản phải được đăng  
ký theo quy định của BLDS và pháp luật về đăng ký tài sản. Quyền sở hữu,  
quyền khác đối với tài sản là động sản không phải đăng ký, trừ trường hợp pháp  
luật về đăng ký tài sản có quy định khác. Việc đăng ký tài sản phải được công  
khai (Điều 106).  
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối  
với đối tượng sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác (Điều  
10  
115), trong đó, quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ được quy định  
trong BLDS và pháp luật về sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất được quy định  
trong BLDS và pháp luật về đất đai.  
4. Quy định về giao dịch dân sự và đại diện linh hoạt, bao quát hơn,  
bảo đảm tốt hơn sự tự do ý chí, sự an toàn pháp lý và ổn định trong giao  
dịch dân sự, quyền và lợi ích hợp pháp của bên thiện chí, bên ngay tình.  
4.1. Về giao dịch dân sự (Điều 116 - Điều 133)  
- Quy định chủ thể tham gia giao dịch dân sự là người có năng lực pháp  
luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;  
- Quy định về giải quyết giao dịch dân sự vô hiệu tương đối có tính linh  
hoạt hơn, tôn trọng, bảo vệ tốt hơn lợi ích của chủ thể giao dịch, nhất là bên yếu  
thế, ví dụ: giao dịch dân sự do người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành  
vi dân sự xác lập, thực hiện đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;  
giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người  
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong  
nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người  
đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ thì không vô hiệu (khoản 2 Điều 125)...;  
- Quy định giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về  
hình thức thì vô hiệu. Tuy nhiên, trên cơ sở tôn trọng thực tế thực hiện giao dịch  
và ý chí đích thực của chủ thể trong giao dịch, bảo đảm sự ổn định của giao dịch  
dân sự, các quan hệ liên quan và hạn chế sự không thiện chí của một bên trong  
việc lợi dụng việc không tuân thủ quy định về hình thức để không thực hiện  
cam kết của mình, Điều 129 BLDS năm 2015 quy định 02 trường hợp ngoại lệ  
để Tòa án công nhận giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức khi  
có yêu cầu của một bên hoặc các bên :  
(i) Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản  
nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực  
hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch;  
(ii) Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy  
định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện  
ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch. Trong trường hợp này, các bên  
không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.  
- Quy định trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được  
đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng  
một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào  
việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch với người thứ ba  
không bị vô hiệu. Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ  
quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu,  
trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu  
giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết  
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó  
11  
chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa  
(Điều 133);  
- Quy định cụ thể hơn về thời hiệu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và  
hậu quả pháp lý của việc hết thời hiệu này. Trong đó, thời điểm tính thời hiệu  
đối với giao dịch vô hiệu tương đối (các điều 125, 126, 127, 128) và giao dịch  
vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức (Điều 129) được quy định linh  
hoạt theo tính chất của từng loại giao dịch và hết thời hiệu tuyên bố giao dịch  
dân sự vô hiệu tương đối mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô  
hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực; cụ thể là:  
+ Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu quy định  
tại các điều 125, 126, 127, 128 và 129 của Bộ luật dân sự là 02 năm, kể từ ngày  
người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập;  
+ Đối với giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức  
xã hội (Điều 123) và giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điêu 124) thì thời hiệu yêu  
cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.  
4.2. Về đại diện (từ Điều 134 đến Điều 143)  
BLDS năm 2015 sửa đổi, bổ sung quy định về đại diện nhằm tạo điều  
kiện pháp lý tốt hơn trong việc trợ giúp cá nhân, pháp nhân thực hiện, bảo vệ  
các quyền dân sự của mình và hạn chế rủi ro pháp lý trong các quan hệ dân  
sự; cụ thể như sau:  
- Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp  
luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập,  
thực hiện (khoản 3 Điều 134);  
- Quy định pháp nhân có thể là người đại diện theo ủy quyền cho các chủ  
thể khác (khoản 1 Điều 134);  
- Tòa án có thể chỉ định người đại diện theo pháp luật cho cá nhân, pháp  
nhân trong quá trình tố tụng (khoản 3 Điều 136 và điểm c khoản 1 Điều 137);  
- Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là người được pháp nhân  
chỉ định theo điều lệ hoặc người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp  
luật hoặc người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án; một pháp  
nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có  
quyền đại diện cho pháp nhân trong thời hạn đại diện và phạm vi đại diện theo  
quy định của BLDS (Điều 137);  
- Đại diện theo pháp luật có quyền nhân danh bên được đại diện xác lập,  
thực hiện hành vi pháp lý phù hợp với quyền, nghĩa vụ của đại diện theo pháp  
luật. Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù  
hợp với phạm vi quyền đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người  
được đại diện. Người đại diện có quyền xác lập, thực hiện hành vi cần để đạt  
được mục đích của việc đại diện (Điều 139).  
- Trường hợp không xác định được thời hạn đại diện mà quyền đại diện  
12  
được xác định theo giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại diện được tính đến  
thời điểm chấm dứt giao dịch dân sự đó, nếu quyền đại diện không được xác  
định với giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại diện là 01 năm, kể từ thời điểm  
phát sinh quyền đại diện;  
- Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện thì người đại  
diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích  
của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;  
- Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp  
nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập,  
thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là  
người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;  
- Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện  
vẫn làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện nếu người được đại  
diện đồng ý, người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn  
hợp lý hoặc người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không  
biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với  
mình vượt quá phạm vi đại diện.  
6. Quy định về thời hiệu phù hợp hơn với bản chất pháp lý của thời  
hiệu trong quan hệ dân sự - công cụ pháp lý để chủ thể sử dụng bảo vệ  
quyền, lợi ích hợp pháp của mình (Điều 149 - Điều 157)  
6.1. Kế thừa BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 tiếp tục quy định 4 loại  
thời hiệu, gồm: thời hiệu hưởng quyền dân sự, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân  
sự, thời hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự, nhưng có bổ  
sung quy định cụ thể về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc  
dân sự, cụ thể như sau:  
- Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu  
cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm  
phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện (khoản 3 Điều 150).  
Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu  
cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ  
trường hợp pháp luật có quy định khác (khoản 1 Điều 154).  
Thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong các trường hợp sau đây: (1) Yêu  
cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản; (2). Yêu cầu bảo vệ quyền sở  
hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác; (3).  
Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai; (4). Trường  
hợp khác do luật định (Điều 155).  
- Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là thời hạn mà chủ thể được  
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp  
pháp của cá nhân, pháp nhân, lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; nếu  
thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu (khoản 4 Điều 150). Thời hiệu yêu  
13  
cầu giải quyết việc dân sự được tính từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, trừ trường  
hợp pháp luật có quy định khác (khoản 2 Điều 154).  
Để tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân được Hiến pháp và  
pháp luật công nhận đều được tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm kịp thời, nâng cao  
trách nhiệm của Tòa án, các cơ quan có thẩm quyền khác trong tôn trọng, bảo  
vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, sự ổn định của các quan hệ dân sự và  
để phù hợp hơn với bản chất pháp lý của thời hiệu, BLDS năm 2015 quy định  
về thời hiệu theo nguyên tắc: cá nhân, pháp nhân phải yêu cầu tòa án, trọng tài  
giải quyết vụ, việc dân sự trong thời hạn luật định, hết thời hạn đó mà cá nhân,  
pháp nhân mới có yêu cầu thì thay vì từ chối giải quyết yêu cầu của cá nhân,  
pháp nhân như quy định hiện hành, tòa án hoặc trọng tài vẫn thụ lý, giải quyết  
và tuyên bố chủ thể được hưởng quyền dân sự hoặc được miễn trừ nghĩa vụ dân  
sự.  
Một trong những nội dung đổi mới cơ bản của BLDS năm 2015 về thời  
hiệu là quy định “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp  
dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được  
đưa ra trước khi Tòa sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc. Người  
được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu,  
trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ”  
(khoản 2 Điều 149). Theo quy định này, khi thụ lý vụ việc, Tòa án có trách  
nhiệm giải thích cho các bên về quyền, nghĩa vụ của mình, bao gồm cả quyền  
về áp dụng thời hiệu. Nếu ít nhất một bên yêu cầu Tòa án đình chỉ giải quyết do  
đã hết thời hiệu thì Tòa án có trách nhiệm áp dụng quy định về thời hiệu.  
Trường hợp các bên vẫn yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp để bảo vệ quyền,  
lợi ích của mình thì Tòa án vẫn thụ lý giải quyết theo tinh thần bảo vệ tối đa  
quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự.  
- Bổ sung quy định rõ thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện, thời  
hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong các  
sự kiện sau đây (Điều 156):  
+ Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền  
khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu;  
+ Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện,  
người có quyền yêu cầu chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, khó khăn  
trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;  
+ Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có  
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi  
dân sự chưa có người đại diện khác thay thế.  
7. Quy định về quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản theo hướng  
tách bạch giữa quan hệ thực tế của người chiếm hữu với tài sản và quan hệ  
giữa chủ sở hữu với chủ thể có quyền khác đối với tài sản khi có lợi ích  
trên cùng một tài sản; tách bạch giữa thời điểm có hiệu lực của giao dịch  
14  
với thời điểm chuyển quyền và thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng với  
người thứ ba. Qua đó, bảo đảm tốt hơn cho tài sản là hàng hóa trong giao  
lưu dân sự, được lưu thông không ngừng ở nhiều dạng thức, quy mô khác  
nhau, được tối đa hóa giá trị không chỉ bởi chủ sở hữu mà còn bởi cả người  
không phải là chủ sở hữu; hạn chế được rủi ro pháp lý, giữ được sự ổn  
định của các quan hệ dân sự và các quan hệ khác có liên quan.  
7.1. Về quy định chung (từ Điều 158 đến Điều 178)  
- Bên cạnh kế thừa có sửa đổi quy định về quyền sở hữu, Bộ luật bổ sung  
chế định quyền khác đối với tài sản với nội hàm là quyền của chủ thể trực tiếp  
nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác, bao gồm 3  
quyền: (i) Quyền đối với bất động sản liền kề; (ii) Quyền hưởng dụng; và (iii)  
Quyền bề mặt. Trong mối quan hệ với quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản  
vẫn có hiệu lực trong trường hợp quyền sở hữu được chuyển giao, trừ trường  
hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.  
- Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài  
sản nhưng không được trái với quy định của luật, gây thiệt hại hoặc làm ảnh  
hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp  
pháp của người khác.  
- Chủ thể có quyền khác đối với tài sản được thực hiện mọi hành vi trong  
phạm vi quyền được quy định tại Bộ luật này, luật khác có liên quan nhưng  
không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi  
ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản hoặc của người  
khác.  
- Chủ thể có quyền khác đối với tài sản được bảo vệ và bị giới hạn quyền  
như chủ sở hữu trong phạm vi quyền.  
7.2. Về thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản  
(Điều 161)  
Quy định thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thực  
hiện theo quy định của BLDS, luật khác có liên quan; trường hợp luật không có  
quy định thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên; trường hợp luật không quy  
định và các bên không có thỏa thuận thì thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền  
khác đối với tài sản là thời điểm tài sản được chuyển giao.  
Thời điểm tài sản được chuyển giao là thời điểm bên có quyền hoặc  
người đại diện hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản.  
Trường hợp tài sản chưa được chuyển giao mà phát sinh hoa lợi, lợi tức  
thì hoa lợi, lợi tức thuộc về bên có tài sản chuyển giao, trừ trường hợp có thỏa  
thuận khác.  
7.3 Về chiếm hữu (từ Điều 179 đến Điều 185)  
Nhằm bảo đảm trật tự xã hội, sự ổn định của giao dịch, giá trị kinh tế của  
tài sản, sự thiện chí trong quan hệ dân sự, BLDS năm 2015 đã bổ sung quy định  
15  
chế định chiếm hữu như là tình trạng pháp lý về việc cá nhân, pháp nhân nắm  
giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối  
với tài sản. Theo chế định này, người chiếm hữu tài sản được suy đoán là ngay  
tình; người nào cho rằng, người chiếm hữu tài sản là không ngay tình thì phải  
chứng minh. Người nào có tranh chấp với người chiếm hữu thì phải chứng minh  
rằng người chiếm hữu không có quyền chiếm hữu (Điều 184). Người chiếm hữu  
ngay tình, liên tục, công khai được áp dụng thời hiệu hưởng quyền và được  
hưởng hoa lợi, lợi tức mà tài sản mang lại theo quy định của BLDS và luật khác  
có liên quan. Trường hợp việc chiếm hữu bị người khác xâm phạm thì người  
chiếm hữu có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành  
vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại hoặc yêu  
cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt  
hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại.  
7.4. Về hình thức sở hữu (từ Điều 197 đến Điều 220)  
Quy định hình thức sở hữu dựa trên sự khác biệt trong cách thức thực  
hiện quyền, theo đó có 3 hình thức sở hữu được ghi nhận là sở hữu toàn dân, sở  
hữu riêng và sở hữu chung (BLDS năm 2005 quy định dựa trên yếu tố chủ thể).  
Trong đó, hình thức sở hữu toàn dân thay cho hình thức sở hữu nhà nước trong  
Bộ luật dân sự năm 2005; hình thức sở hữu riêng (sở hữu của một cá nhân hoặc  
một pháp nhân) thay cho hình thức sở hữu tư nhân trong Bộ luật dân sự năm  
2005 (sở hữu của một cá nhân); bổ sung sở hữu chung của các thành viên gia  
đình; quy định cụ thể, minh bạch và công bằng hơn trong thực hiện quyền sở  
hữu chung, ví dụ: quy định trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với  
động sản từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không  
có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc sở hữu chung của các chủ sở  
hữu còn lại (khoản 5 Điều 218)…  
7.5. Về quyền đối với bất động sản liền kề (từ Điều 245 đến Điều 256)  
Khác với BLDS năm 2005 quy định về quyền sử dụng bất động sản liền  
kề dựa trên quan hệ giữa hai chủ sở bất động sản có liên quan thì BLDS năm  
2015 đã quy định về quyền đối với bất động sản liền kề theo tinh thần của địa  
dịch, tức là dựa trên quan hệ giữa hai bất động sản có liên quan - quyền được  
thực hiện trên một bất động sản (gọi là bất động sản chịu hưởng quyền) nhằm  
phục vụ cho việc khai thác một bất động sản khác thuộc quyền sở hữu của  
người khác (gọi là bất động sản hưởng quyền). Quyền đối với bất động sản liền  
kề còn tồn tại chừng nào các bất động sản liên quan còn tồn tại và nhu cầu  
hưởng quyền vẫn còn cho dù bất động sản hưởng quyền và bất động sản chịu  
hưởng quyền đã được chuyển giao cho chủ thể khác.  
Quyền đối với bất động sản liền kề được xác lập do địa thế tự nhiên, theo  
quy định của luật, theo thoả thuận hoặc theo di chúc; có hiệu lực đối với mọi cá  
nhân, pháp nhân và được chuyển giao khi bất động sản được chuyển giao, trừ  
trường hợp luật liên quan có quy định khác. Quyền đối với bất động sản liền kề  
được thực hiện theo thỏa thuận của các bên. Trường hợp các bên không có thỏa  
16  
thuận thì thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm nhu cầu hợp lý của việc khai thác  
bất động sản hưởng quyền, phù hợp với mục đích sử dụng của cả bất động sản  
hưởng quyền và bất động sản chịu hưởng quyền. Chủ sở hữu bất động sản  
hưởng quyền không lạm dụng quyền đối với bất động sản chịu hưởng quyền;  
chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền không được thực hiện các hành vi  
ngăn cản hoặc làm cho việc thực hiện quyền đối với bất động sản hưởng quyền  
trở nên khó khăn.  
7.6. Về quyền hưởng dụng (từ Điều 257 đến Điều 266)  
- Quyền hưởng dụng là quyền của chủ thể được khai thác công dụng và  
hưởng hoa lợi, lợi tức đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác trong  
một thời hạn nhất định.  
- Cá nhân, pháp nhân đều có thể là chủ thể có quyền hưởng dụng và đối  
tượng của quyền hưởng dụng có thể là tất cả các tài sản được quy định trong  
BLDS;  
- Quyền hưởng dụng có thể được xác lập theo quy định của luật, theo  
thoả thuận hoặc theo di chúc; quyền hưởng dụng được xác lập từ thời điểm nhận  
chuyển giao tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có  
quy định khác và có hiệu lực đối với mọi cá nhân, pháp nhân, trừ trường hợp  
luật liên quan có quy định khác;  
- Thời hạn của quyền hưởng dụng do các bên thỏa thuận hoặc do luật quy  
định nhưng tối đa đến hết cuộc đời của người hưởng dụng đầu tiên nếu người  
hưởng dụng là cá nhân và đến khi pháp nhân chấm dứt tồn tại nhưng tối đa 30  
năm nếu người hưởng dụng đầu tiên là pháp nhân;  
- Người hưởng dụng tự mình hoặc cho phép người khác khai thác, sử  
dụng, thu hoa lợi, lợi tức từ đối tượng của quyền hưởng dụng; cho thuê quyền  
hưởng dụng đối với tài sản; không phải chịu chi phí sửa chữa để tài sản không  
bị suy giảm đáng kể dẫn tới không thể sử dụng được hoặc mất toàn bộ công  
dụng, giá trị của tài sản;  
- Chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản nhưng không được làm thay đổi  
quyền hưởng dụng đã được xác lập; yêu cầu Tòa án truất quyền hưởng dụng  
trong trường hợp người hưởng dụng vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của mình;  
không được cản trở, thực hiện hành vi khác gây khó khăn hoặc xâm phạm đến  
quyền, lợi ích hợp pháp của người hưởng dụng; thực hiện nghĩa vụ sửa chữa tài  
sản để bảo đảm không bị suy giảm đáng kể dẫn tới tài sản không thể sử dụng  
được hoặc mất toàn bộ công dụng, giá trị của tài sản;  
- Quyền hưởng dụng chấm dứt khi thời hạn của quyền hưởng dụng đã  
hết; theo thỏa thuận của các bên; người hưởng dụng trở thành chủ sở hữu tài sản  
là đối tượng của quyền hưởng dụng; người hưởng dụng từ bỏ hoặc không thực  
hiện quyền hưởng dụng trong thời hạn do luật quy định; tài sản là đối tượng của  
quyền hưởng dụng không còn; theo quyết định của Tòa án hoặc căn cứ khác  
theo quy định của luật.  
17  
Khi chấm dứt quyền hưởng dụng thì tài sản là đối tượng của quyền hưởng  
dụng phải được hoàn trả cho chủ sở hữu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác  
hoặc luật có quy định khác.  
7.7. Về quyền bề mặt (từ Điều 267 đến Điều 273)  
- Quyền bề mặt là quyền của một chủ thể đối với mặt đất, mặt nước,  
khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất mà quyền sử dụng đất đó  
thuộc về chủ thể khác.  
- Cá nhân hoặc pháp nhân đều có thể là chủ thể có quyền bề mặt;  
- Quyền bề mặt được xác lập theo quy định của luật, theo thỏa thuận hoặc  
theo di chúc; có hiệu lực từ thời điểm chủ thể có quyền sử dụng đất chuyển giao  
mặt đất, mặt nước, khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất cho  
chủ thể có quyền bề mặt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan  
có quy định khác. Quyền bề mặt có hiệu lực đối với mọi cá nhân, pháp nhân, trừ  
trường hợp luật liên quan có quy định khác;  
- Thời hạn của quyền bề mặt được xác định theo quy định của luật, theo  
thoả thuận hoặc di chúc nhưng không vượt quá thời hạn của quyền sử dụng đất.  
Trường hợp thoả thuận hoặc di chúc không xác định thời hạn của quyền bề mặt  
thì mỗi bên có quyền chấm dứt quyền này bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo  
bằng văn bản cho bên kia biết trước ít nhất là 06 tháng;  
- Chủ thể quyền bề mặt có quyền khai thác, sử dụng mặt đất, mặt nước,  
khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất thuộc quyền sử dụng đất  
của người khác để xây dựng công trình, trồng cây, canh tác và được sở hữu  
những tài sản được tạo lập nhưng không được trái với quy định của Bộ luật này,  
pháp luật về đất đai, xây dựng, quy hoạch, tài nguyên, khoáng sản và quy định  
khác của pháp luật có liên quan. Trường hợp quyền bề mặt được chuyển giao  
một phần hoặc toàn bộ thì chủ thể nhận chuyển giao được kế thừa quyền bề mặt  
theo điều kiện và trong phạm vi tương ứng với phần quyền bề mặt được chuyển  
giao.  
- Trường hợp quyền bề mặt chấm dứt, chủ thể quyền bề mặt phải trả lại  
mặt đất, mặt nước, khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất cho  
chủ thể có quyền sử dụng đất theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật;  
chủ thể quyền bề mặt phải xử lý tài sản thuộc sở hữu của mình trước khi quyền  
bề mặt chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác; trường hợp chủ thể quyền  
bề mặt không xử lý tài sản trước khi quyền bề mặt chấm dứt thì quyền sở hữu  
tài sản đó thuộc về chủ thể có quyền sử dụng đất kể từ thời điểm quyền bề mặt  
chấm dứt, trừ trường hợp chủ thể có quyền sử dụng đất không nhận tài sản đó.  
Trường hợp chủ thể có quyền sử dụng đất không nhận tài sản mà phải xử lý tài  
sản thì chủ thể có quyền bề mặt phải thanh toán chi phí xử lý tài sản.  
8. Quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đầy đủ, rõ ràng và hợp lý  
hơn về những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, về sự thông thoáng,  
18  
minh bạch, an toàn pháp lý trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (từ  
Điều 292 đến Điều 350)  
- Ghi nhận 09 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bao gồm: (1) Cầm  
cố tài sản; (2) Thế chấp tài sản; (3) Đặt cọc; (4) Ký cược; (5) Ký quỹ; (6) Bảo  
lưu quyền sở hữu; (7) Bảo lãnh; (8) Tín chấp và (9) Cầm giữ tài sản. So với  
BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã bổ sung 02 biện pháp mới, đó là: cầm giữ  
tài sản bảo lưu quyền sở hữu.  
- Quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong tương lai theo hướng,  
nghĩa vụ được hình thành trong thời hạn bảo đảm là nghĩa vụ được bảo đảm, trừ  
trường hợp các bên có thỏa thuận khác; khi nghĩa vụ trong tương lai được hình  
thành, các bên không phải xác lập lại biện pháp bảo đảm đối với nghĩa vụ đó;  
- Về tài sản bảo đảm, BLDS năm 2015 quy định: tài sản bảo đảm phải  
thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm; tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung,  
nhưng phải xác định được; tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản  
hình thành trong tương lai và giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng  
hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm. So với BLDS năm 2005, ngoài  
việc tiếp tục khẳng định tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản  
hình thành trong tương lai và tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên  
bảo đảm như quy định của BLDS hiện hành, BLDS năm 2015 đã bổ sung quy  
định trường hợp cầm giữ tài sản và bảo lưu quyền sở hữu thì tài sản bảo đảm  
không phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm.  
- Biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi  
đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài  
sản bảo đảm; khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ  
ba thì bên nhận bảo đảm được quyền truy đòi tài sản bảo đảm và được quyền ưu  
tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận tài sản bảo đảm theo quy định của Bộ  
luật dân sự và luật khác có liên quan. Như vậy, ngoài việc đăng ký giao dịch  
bảo đảm thì hiệu lực đối kháng với người thứ ba cũng là căn cứ để xác định thứ  
tự ưu tiên thanh toán (Điều 308).  
- Quy định tách biệt giữa thời điểm biện pháp bảo đảm có hiệu lực và thời  
điểm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba, như: đối với cầm cố, hợp  
đồng cầm cố tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp các bên có  
thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác; cầm cố tài sản có hiệu lực đối  
kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên nhận cầm cố nắm giữ tài sản cầm cố  
(Điều 310) hoặc đối với cầm giữ tài sản, biện pháp bảo đảm này phát sinh từ  
thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc  
thực hiện không đúng nghĩa vụ và có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ  
thời điểm bên cầm giữ chiếm giữ tài sản (Điều 347).  
- Quy định cụ thể, minh bạch, hợp lý, công bằng về quy trình xử lý tài sản  
bảo đảm, về phương thức xử lý tài sản bảo đảm, như: Trước khi xử lý tài sản  
bảo đảm, bên nhận bảo đảm phải thông báo bằng văn bản trong một thời hạn  
19  
hợp lý cho bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo đảm khác, nếu không thông  
báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, đối với tài sản bảo đảm có nguy cơ bị  
hư hỏng dẫn đến bị giảm sút giá trị hoặc mất toàn bộ giá trị thì bên nhận bảo  
đảm có quyền xử lý ngay, đồng thời phải thông báo cho bên bảo đảm và các bên  
nhận bảo đảm khác về việc xử lý tài sản đó; người đang giữ tài sản bảo đảm có  
nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm để xử lý khi thuộc một  
trong các căn cứ xử lý tài sản bảo đảm, nếu người đang giữ tài sản không giao  
tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, trừ trường  
hợp luật liên quan có quy định khác…  
Đặc biệt, BLDS năm 2015 đã bổ sung quy định về việc xử lý tài sản bảo  
đảm trong trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản  
gắn liền với đất (Điều 325) và thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế  
chấp quyền sử dụng đất (Điều 326). Theo đó, trường hợp thế chấp quyền sử  
dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất đồng  
thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì tài sản được xử lý bao gồm cả tài  
sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác; trường hợp thế chấp  
quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản  
gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với  
đất được tiếp tục sử dụng đất trong phạm vi quyền, nghĩa vụ của mình; quyền  
và nghĩa vụ của bên thế chấp trong mối quan hệ với chủ sở hữu tài sản gắn liền  
với đất được chuyển giao cho người nhận chuyển quyền sử dụng đất, trừ trường  
hợp có thỏa thuận khác.  
- Quy định bảo lãnh là biện pháp bảo đảm không bằng tài sản, theo đó,  
trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh  
phải thực hiện nghĩa vụ đó. Nếu bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ  
bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị  
nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại, nếu có. Bên bảo lãnh và bên nhận bảo  
lãnh có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực  
hiện nghĩa vụ bảo lãnh.  
9. Quy định về trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ theo hướng  
bảo đảm sự an toàn, thông thoáng, sự thiện chí và công bằng trong quan hệ  
nghĩa v(từ Điều 351 đến Điều 364)  
- Quy định cụ thể hơn về nội hàm của vi phạm nghĩa vụ bao gồm việc bên  
có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ  
nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ;  
- Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì bị suy đoán là có lỗi và phải  
chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền; trường hợp có thiệt hại do vi  
phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ  
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 30 trang Thùy Anh 20/05/2022 1180
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Tập huấn Bộ luật dân sự năm 2015", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_tap_huan_bo_luat_dan_su_nam_2015.pdf