Tài liệu Một số vấn đề cơ bản của hiến pháp các nước trên thế giới (Phần 1)

115  
145  
7
8
303  
9
CHÚ DẪN CỦA NHÀ XUẤT BẢN  
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu rõ: "Tiếp  
tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã  
hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do  
nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng  
quản lý kinh tế, quản lý xã hội; giải quyết đúng mối quan hệ giữa  
Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân,  
với thị trường. Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước  
theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ  
cương. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích  
chính đáng của mọi người dân. Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể  
chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực  
nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là  
thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan  
trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nâng  
cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với yêu  
cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp  
tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành có  
hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi  
ích quốc gia, dân tộc.  
Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã  
được sửa đổi, bổ sung năm 2001) phù hợp với tình hình mới. Tiếp tục  
xây dựng, từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp  
11  
hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan  
công quyền"1.  
Quán triệt chủ trương, đường lối do Đại hội Đảng đã đề ra, hiện  
nay, Đảng và Nhà nước ta đang khẩn trương triển khai thực hiện các  
bước để bảo đảm cho việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 đạt  
được kết quả cao.  
Việc sửa đổi Hiến pháp là một sinh hoạt mang ý nghĩa chính trị  
đặc biệt quan trọng bởi Hiến pháp là luật tổ chức cơ bản của quốc gia,  
thiết lập các thiết chế và bộ máy chính quyền, xác định phạm vi quyền  
lực của chính quyền và bảo đảm các quyền và tự do của công dân.  
Chính vì vậy, việc tìm hiểu nội dung các cách thức quy định những vấn  
đề cơ bản trong hiến pháp các nước để so sánh, tham khảo trong quá  
trình nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp nước ta là một việc làm  
cần thiết.  
Nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của bạn đọc về nội dung, phạm vi,  
thể thức, kỹ thuật, quy trình ban hành một bản hiến pháp, Nhà xuất bản  
Chính trị quốc gia - Sự thật phối hợp với Ban biên tập dự thảo sửa đổi  
Hiến pháp năm 1992 (Văn phòng Quốc hội) xuất bản cuốn sách Một số  
vấn đề cơ bản của hiến pháp các nước trên thế giới (Sách chuyên khảo).  
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.  
Tháng 10 năm 2012  
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT  
_______________  
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,  
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.246-247.  
12  
LỜI NÓI ĐẦU  
Trong quá trình xây dựng các bản hiến pháp của nước ta,  
việc nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập hiến của  
các nước trên thế giới luôn được chú trọng. Từ bản Hiến pháp  
đầu tiên năm 1946 cho đến bản Hiến pháp năm 1992 được sửa  
đổi, bổ sung năm 2001 đều ghi nhận những giá trị chung, tiến  
bộ của nhân loại.  
Tờ trình số 11/TTr-UBTVQH13 ngày 02 tháng 8 năm 2011  
của Ủy ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội về việc triển  
khai thực hiện chủ trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến  
pháp năm 1992 đã nêu lên sự cần thiết tham khảo kinh nghiệm  
lập hiến của các nước trên thế giới về quy trình, cách thể hiện,  
kỹ thuật trình bày hiến pháp. Thực hiện sự chỉ đạo của  
Thường trực Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992,  
Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tổ chức  
nghiên cứu, biên soạn cuốn sách chuyên khảo về hiến pháp  
các nước trên thế giới.  
Mục đích chủ yếu của cuốn sách là giới thiệu nội dung và  
cách thức quy định những vấn đề cơ bản trong hiến pháp các  
nước để có thể so sánh, tham khảo trong quá trình nghiên cứu,  
sửa đổi, bổ sung Hiến pháp của nước ta.  
Nội dung của cuốn sách này không đề cập toàn bộ các vấn  
đề của hiến pháp và môn hiến pháp học, không đi theo bố cục  
thông thường của các bản hiến pháp mà đề cập những vấn đề  
13  
đang được Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cũng  
như các cơ quan, tổ chức và các chuyên gia nghiên cứu, sửa đổi  
hiến pháp quan tâm. Đó là những vấn đề về chủ quyền nhân  
dân và các hình thức nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực  
nhà nước; về quyền con người; về mức độ và cách thức quy  
định các nội dung kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học,  
công nghệ, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong  
hiến pháp; về mô hình và cách thức tổ chức bộ máy nhà nước ở  
trung ương và chính quyền địa phương; về kỹ thuật lập hiến và  
cách thức sửa đổi hiến pháp. Trong từng nội dung này, các tác  
giả đã bám sát các quy định của hiến pháp các nước, trên cơ sở  
đó, tiến hành phân tích, so sánh để rút ra những xu hướng  
chung và những điểm đặc thù trong rất nhiều bản hiến pháp  
được nghiên cứu. Để làm rõ thêm những quy định vốn khái  
quát, cô đọng và có tính nguyên tắc của hiến pháp, ở một số nội  
dung, các tác giả cũng đã viện dẫn các luật và sử dụng các tài  
liệu nghiên cứu có liên quan. Với cách tiếp cận như vậy, đây là  
tài liệu chuyên khảo có giá trị lý luận và thực tiễn, đáp ứng yêu  
cầu nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hiến pháp. Hy vọng rằng,  
cùng với rất nhiều tài liệu nghiên cứu mang tính lý luận đã  
được các viện, trung tâm nghiên cứu, trường đại học xuất bản  
trong thời gian gần đây, cuốn sách này sẽ phục vụ một cách  
hữu hiệu Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, các vị  
đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc  
tham khảo kinh nghiệm xây dựng hiến pháp của các nước trên  
thế giới.  
Ban biên tập xin trân trọng cảm ơn các vị đại biểu Quốc  
hội, các đồng chí lãnh đạo, các nhà quản lý, các giáo sư, các  
chuyên gia đã dành thời gian đọc và góp ý cho cuốn sách  
này, cảm ơn sự hỗ trợ của Dự án tăng cường năng lực cho các  
14  
cơ quan đại diện ở Việt Nam do Chương trình phát triển Liên  
hợp quốc (UNDP) tài trợ trong việc tổ chức cuộc hội thảo lấy  
ý kiến về bản thảo của cuốn sách. Những ý kiến đóng góp  
của quý vị đã làm cho cuốn sách được hoàn thiện và đầy đủ  
hơn. Ban biên tập cũng xin chân thành cảm ơn các cán bộ,  
chuyên viên Vụ pháp luật, Vụ kinh tế, Trung tâm thông tin,  
thư viện và nghiên cứu khoa học thuộc Văn phòng Quốc hội  
đã dành nhiều thời gian để hỗ trợ về các công tác hành chính  
và biên tập.  
Mặc dù Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992  
đã cố gắng rất nhiều trong việc tổ chức nghiên cứu và biên  
soạn nhưng do hạn chế về mặt thời gian và do số lượng các  
bản hiến pháp cần phải nghiên cứu khá lớn nên công tác biên  
soạn không tránh khỏi sai sót, kính mong bạn đọc thông cảm  
và đóng góp ý kiến để cuốn sách được tiếp tục hoàn thiện  
trong lần xuất bản sau.  
GS.TS. PHAN TRUNG LÝ  
Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội,  
Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội,  
Ủy viên Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992,  
Trưởng ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992  
15  
16  
CHƯƠNG I  
TỔNG QUAN VỀ HIẾN PHÁP  
CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI  
I. QUAN NIỆM VỀ HIẾN PHÁP  
1. Định nghĩa hiến pháp  
Theo cách định nghĩa hiện đại và phổ biến được diễn đạt  
trong cuốn từ điển luật danh tiếng "Black’s Law Dictionary",  
hiến pháp là luật tổ chức cơ bản của một quốc gia hay một nhà  
nước thiết lập các thể chế và bộ máy của chính quyền, xác định  
phạm vi quyền lực của chính quyền, và bảo đảm các quyền và tự do  
của công dân1. Có thể chỉ ra một số dấu hiệu đặc trưng sau  
đây của hiến pháp:  
Thứ nhất, hiến pháp là luật tổ chức (organic law): Hiến pháp  
xác lập các quy tắc tổ chức và vận hành các cơ quan cơ bản  
trong bộ máy nhà nước, như cơ quan lập pháp (quốc hội hay  
nghị viện), cơ quan hành pháp (chính phủ), và cơ quan tư pháp  
(tòa án).  
Thứ hai, hiến pháp là luật cơ bản (basic law), vì: (1) Hiến pháp  
là nền tảng pháp lý của sự tồn tại và vận hành của toàn bộ hệ  
_______________  
1. Bryan A. Garner (ed): Black’s Law Dictionary, Ninth Edition, U.S.A:  
Thomson Reuters, 2009, p.353.  
17  
thống chính trị; (2) Hiến pháp là nền tảng của toàn bộ hệ thống  
pháp luật; (3) Hiến pháp bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của  
con người và của công dân1.  
Thứ ba, hiến pháp là luật tối cao (highest law): Hiến pháp có hiệu  
lực pháp lý cao nhất; tất cả các văn bản pháp luật khác phải phù  
hợp với hiến pháp. Cơ sở của tính tối cao của hiến pháp so với các  
văn bản luật ở chỗ hiến pháp là văn bản phản ánh một cách toàn  
vẹn nhất chủ quyền nhân dân, do nhân dân lập ra, trong khi luật  
thì do nghị viện (là cơ quan đại diện của nhân dân được nhân dân  
ủy quyền) làm ra2.  
_______________  
1. Mahendra tr.Singh (ed): Comparative Constitutional Law, Lucknow:  
Eastern Book Company, 2011, p.34.  
2. Học thuyết về tính tối cao của hiến pháp được nêu ra lần đầu tiên vào năm  
1788 ở Hoa Kỳ bởi nhà lập hiến Alếchxanđơ Hamintơn (Alexander Hamilton) và  
sau đó được củng cố và phát triển bởi Chánh án Giôn Mácsan (John Marshall)  
trong phán quyết của vụ án nổi tiếng "Mabury v. Madison" (1803). Nguyên tắc về  
tính tối cao của hiến pháp được học giả hiến pháp học người Áo - Han Kensen  
(Hans Kelsen) coi như một sự bảo đảm khách quan đối với hiến pháp và cũng  
được xem như một xu hướng phổ biến của chủ nghĩa hợp hiến hiện đại, đặc biệt  
là các hiến pháp của châu Mỹ Latinh và châu Phi. Châu Âu mãi tận đến thế kỷ XX  
mới chấp nhận thuyết hiến pháp tối cao. Sự chấp nhận của châu Âu diễn ra sau  
Chiến tranh thế giới thứ I, chủ yếu phản ánh hệ thống hiến pháp được Kensen  
thiết chế cho riêng quốc gia của ông, nước Áo, và ở Séc và Xlôvakia. Những năm  
sau đó, sau Chiến tranh thế giới thứ II, hệ thống hiến pháp tối cao và chế độ tài  
phán hiến pháp của Áo được chấp nhận ở Đức và Italia, và thông qua sự ảnh  
hưởng của nó, ở nhiều quốc gia châu Âu khác. Xem: Allan R.Brewer - Carías:  
Judicial Review in Comparative Law, Cambridge and New York: Cambridge  
University Press, 1989, p.103.  
18  
2. Chức năng của hiến pháp  
Hiến pháp có các chức năng sau đây:  
Thứ nhất, hiến pháp trao quyền cho các cơ quan nhà  
nước. Cụ thể, hiến pháp trao quyền lập pháp cho quốc hội  
hay nghị viện, quyền hành pháp cho chính phủ, và quyền tư  
pháp cho tòa án. Như vậy, hiến pháp là nguồn hình thành  
nên các quyền lực chính đáng của các cơ quan cơ bản của  
Nhà nước.  
Thứ hai, hiến pháp giới hạn quyền lực của các cơ quan nhà  
nước. Cùng với việc trao quyền, hiến pháp xác định các giới  
hạn pháp lý của việc sử dụng quyền lực để tránh việc lạm  
quyền. Chức năng giới hạn quyền lực của hiến pháp góp phần  
hình thành nên chủ nghĩa hợp hiến (constitutionalism) trong  
một quốc gia.  
Thứ ba, hiến pháp bảo vệ các quyền con người, quyền cơ bản  
của công dân. Hiến pháp thừa nhận, tôn trọng, và xác lập các cơ  
chế bảo vệ quyền con người, quyền công dân, giới hạn quyền lực  
nhà nước để ngăn ngừa khả năng lạm dụng quyền lực xâm phạm  
quyền con người, quyền công dân. Alếchxanđơ Hamintơn  
(Alexander Hamilton) khẳng định: “Hiến pháp, bản thân nó, với ý  
nghĩa thực sự và mục đích hữu dụng thực sự, chính là một đạo luật về  
các quyền.”1  
Thứ tư, hiến pháp củng cố tính chính đáng (legitimacy) và  
tính ổn định của chính quyền. Một chính quyền sẽ củng cố  
_______________  
1. Jame Madison, Alexander Hamilton, John Jay: The Federalist Papers,  
U.S.A: Penguin Group, 1987, p.477.  
19  
tính chính đáng của mình trong xã hội khi được tổ chức trên  
cơ sở và vận hành theo khuôn khổ và giới hạn do hiến pháp  
xác lập. Ngoài ra, việc tổ chức và vận hành dựa trên hiến  
pháp cũng bảo đảm sự ổn định trong quá trình phát triển của  
chính quyền.  
Thứ năm, hiến pháp là hình thức để tuyên bố các giá trị  
được thừa nhận chung của cộng đồng1.  
Thứ sáu, hiến pháp là một hình thức để tuyên bố các định  
hướng cơ bản của sự phát triển đất nước. Chức năng này của  
hiến pháp đặc biệt thể hiện rõ trong các nhà nước xã hội chủ  
nghĩa và các nước chuyển đổi.  
3. Các giai đoạn phát triển của hiến pháp  
Quá trình phát triển hiến pháp trên thế giới có thể được  
xem như trải qua bảy giai đoạn sau2:  
- Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ XVIII. Từ năm  
1780 đến năm 1791, các hiến pháp thành văn bắt đầu được xây  
dựng ở Hoa Kỳ (các bang và Liên bang), Ba Lan, Pháp.  
- Giai đoạn thứ hai diễn ra ngay sau các cuộc cách mạng vào  
năm 1848 ở châu Âu. Nhiều nước đã thông qua hiến pháp mới  
nhưng các hiến pháp này lại thường bị thay thế bằng các hiến  
pháp được ban hành bởi các lực lượng phản cách mạng tồn tại  
trong một thời gian ngắn.  
- Giai đoạn thứ ba diễn ra sau Chiến tranh thế giới thứ I.  
_______________  
1. Xem thêm Mục 3.II Chương I.  
2. Jon Elster: Forces and Mechanisms in the Constitution-Making Process,  
Duke Law Journal (45 (364), 1995), p. 368-369.  
20  
Ví dụ như Cộng hòa Séc; Ba Lan xây dựng lại hiến pháp; nước  
Đức bại trận thông qua Hiến pháp Vâyma (Weimar)1.  
- Giai đoạn thứ tư diễn ra sau Chiến tranh thế giới thứ II:  
các nước bại trận như Nhật Bản, Đức, Italia xây dựng hiến  
pháp mới dưới sự giám hộ của các cường quốc đồng minh.  
- Giai đoạn thứ năm gắn liền với sự tan rã của hệ thống thuộc  
địa Anh và Pháp, bắt đầu ở Ấn Độ và Pakixtan vào thập niên 40  
thế kỷ XX và quá trình lập hiến phát triển mạnh vào thập niên 60  
thế kỷ XX. Nhiều hiến pháp mới được ban hành mô phỏng theo  
hiến pháp của nước chiếm đóng trước đây. Ví dụ, Hiến pháp Bờ  
Biển Ngà mô phỏng theo Hiến pháp của nền Đệ ngũ Cộng hòa  
Pháp, Hiến pháp của Gana và Nigiêria mô phỏng theo “mô hình  
Oétminxtơ (Westminster)” của Vương quốc Anh.  
- Giai đoạn thứ sáu diễn ra sau sự sụp đổ của chế độ độc tài ở  
Nam Âu vào giữa thập niên 70 thế kỷ XX. Từ năm 1974 đến  
năm 1978, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Tây Ban Nha ban hành hiến  
pháp mới.  
- Giai đoạn thứ bảy diễn ra khi các nước Trung và Đông Âu  
ban hành hiến pháp mới sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa bị  
thay thế ở đây kể từ năm 19892.  
Gắn với các giai đoạn phát triển hiến pháp là sự ra đời của  
các bản hiến pháp của các nước xã hội chủ nghĩa mà bắt đầu là  
_______________  
1. Gọi là Hiến pháp Vâyma (Weimar) vì được soạn ra ở thành phố  
Vâyma (Weimar). Hiến pháp Vâyma xuất hiện ở Đức dưới nền Cộng hòa  
Vâyma. Cộng hòa Vâyma là tên sửa gia gọi Chính phủ của nước Đức trong  
thời gian chuyển tiếp từ năm 1919, sau khi Chiến tranh thế giới thứ I kết  
thúc đến năm 1933 khi Hítle và đảng Quốc xã lên nắm quyền (theo  
Wikipedia).  
2. Jon Elster: Forces and Mechanisms in the Constitution-Making Process, Sđd.  
21  
Hiến pháp của Cộng hòa Xô viết xã hội chủ nghĩa Liên bang  
Nga năm 1918.  
4. Phân loại hiến pháp  
4.1. Hiến pháp thành văn và hiến pháp bất thành văn:  
Căn cứ vào hình thức của hiến pháp, người ta phân thành  
hiến pháp thành văn và hiến pháp bất thành văn.  
Hiến pháp thành văn là một văn bản đơn hành chứa đựng các  
quy tắc pháp lý liên quan đến việc tổ chức và điều hành quyền  
lực nhà nước, được tuyên bố chính thức là luật cơ bản, có hiệu  
lực pháp lý tối cao. Hiến pháp thành văn đầu tiên của thế giới là  
Hiến pháp Hoa Kỳ được ban hành năm 1787. Hiện nay, hầu hết  
hiến pháp của các quốc gia trên thế giới là hiến pháp thành văn.  
Hiến pháp bất thành văn là tập hợp các tập quán, các giá trị,  
một số được diễn đạt trong các đạo luật, hình thành nên luật tổ  
chức cơ bản của một quốc gia mà ở đó không có một văn bản  
đơn hành đóng vai trò như một hiến pháp1. Vương quốc Anh,  
Niu Dilân và Ixraen là các quốc gia có hiến pháp bất thành văn.  
Ví dụ, Hiến pháp bất thành văn của Vương quốc Anh được  
hình thành từ năm nguồn sau đây:  
(i) Các văn kiện lịch sử như Đại Hiến chương Mácnơ Cáctơ  
(Magna Carta) năm 1215 do các bá tước ép nhà vua phải ban  
hành để thừa nhận các quyền căn bản của con người.  
(ii) Các đạo luật do nghị viện thông qua như Luật về các  
quyền năm 1689, Luật cư trú năm 1701, Các đạo luật cải cách  
các năm 1832, 1867, 1884, Luật nghị viện năm 1911, 1949, các  
_______________  
1. Bryan A. Garner (ed): Black’s Law Dictionary, Sđd, p.353.  
22  
Luật đại diện nhân dân năm 1919, 1928, 1946, Luật nhân quyền  
năm 1998, Luật tự do thông tin năm 2000, Luật cải cách hiến  
pháp năm 2005, v.v..  
(iii) Các tập quán chính trị: Những tập quán này được hình  
thành dần dần theo thời gian, mang tính chất tự nhiên của lịch  
sử. Ví dụ tập quán nhà vua phải hành động với sự cố vấn của  
các bộ trưởng.  
(iv) Các án lệ của tòa án: Pháp luật nước Anh là một hệ  
thống thông luật, dựa trên các án lệ. Các phán quyết của tòa án  
là một nguồn của hiến pháp và phán quyết của tòa án cấp cao  
hơn có giá trị ràng buộc đối với tòa án cấp dưới. Ví dụ, vụ án  
Tuyên cáo, vụ án Tiền chuyên chở, vụ án "Entick v. Carrington" đã  
xác lập những nguyên tắc giới hạn quyền lực của ngành hành  
pháp và trở thành nguồn của hiến pháp.  
(v) Các học thuyết hiến pháp: Ví dụ, học thuyết của các  
chuyên gia hiến pháp người Anh như Oăntơ Bagơhót (Walter  
Bagehot)1 và A.V. Đixây (A.V Dicey)2 cũng được coi là một  
nguồn của Hiến pháp Anh.  
_______________  
1. Walter Bagehot (3-2-1826 - 24-3-1877) là một nhà phân tích, một  
thương gia người Anh. Ông viết cuốn Hiến pháp nước Anh phân tích bản chất  
của Hiến pháp nước Anh, các chức năng của nghị viện, nhà vua, đồng thời  
so sánh Hiến pháp Anh với Hiến pháp Hoa Kỳ. Cuốn sách được coi là một  
tác phẩm kinh điển về hiến pháp và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế  
giới. Xem: Walter Bagehot: The English Constitution, Ithaca, New York:  
Cornell University, 1995.  
2. A.V. Dicey (4-2-1835 - 7-6-1922) là một lý thuyết gia hiến pháp người  
Anh, viết tác phẩm nổi tiếng Nhập môn nghiên cứu luật của hiến pháp, một tác  
phẩm phân tích những nguyên tắc của thuyết chủ quyền nghị viện và  
nguyên tắc pháp quyền ở Anh. Xem A.V. Dicey: An Introduction to the Study  
of the Law of the Constitution, London: Macmillan, 1959.  
23  
Trong cách thức phân loại hiến pháp thành văn và bất  
thành văn cần đặc biệt lưu ý hai điểm sau đây:  
Thứ nhất, một chế độ hiến pháp bất thành văn không phải  
không có văn bản chứa đựng các quy tắc hiến pháp. Như  
trường hợp của nước Anh nói trên cho thấy, các văn bản luật  
do Nghị viện ban hành là một nguồn quan trọng của Hiến pháp  
Anh. Điểm mấu chốt để phân biệt với chế độ hiến pháp thành  
văn là các văn bản trong chế độ hiến pháp bất thành văn không  
được tập hợp lại thành một văn bản đơn hành và được tuyên  
bố chính thức là hiến pháp hay luật cơ bản.  
Thứ hai, ngược lại, một chế độ hiến pháp thành văn cũng  
có các quy tắc hiến pháp bất thành văn. Hơn một trăm năm  
trước đây, Crítxtốphơ Chiađơmân (Christopher Tiedeman)  
(1857-1903), một học giả hiến pháp người Hoa Kỳ đã công bố  
cuốn sách quan trọng với tiêu đề “Hiến pháp bất thành văn của  
Hoa Kỳ”1. Chủ đề này sau đó cũng gây nên sự quan tâm của  
một số học giả khác2. Gần đây nhất, năm 2012, Giáo sư Akhi  
Rít Ama (Akhil Reed Amar) ở Trường luật Yale cũng công bố  
một cuốn sách với tiêu đề “Hiến pháp bất thành văn của Hoa  
Kỳ”. Học giả này cho rằng, các quyền riêng tư, quyền mỗi  
người một phiếu bầu, quyền suy đoán vô tội là những quyền  
hiến pháp căn bản của công dân, dù không được quy định  
trong hiến pháp thành văn, nhưng được tòa án áp dụng, là  
_______________  
1. Christopher Tiedeman: The Unwritten Constitution of the United States: a  
Philosophical Inquiry into the Fundamentals of American Constitutional Law, New  
York: William S.Hein& Co., Inc, 1974.  
2. Xem Michael S. Moore: Do we have an Unwritten Constitution?,  
Southern California Law Review, 63, 1989; Thomas C.Grey: Do we have an  
Unwritten Constitution?, Stanford Law Review, 27, 1975.  
24  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 298 trang Thùy Anh 2980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Một số vấn đề cơ bản của hiến pháp các nước trên thế giới (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_mot_so_van_de_co_ban_cua_hien_phap_cac_nuoc_tren_th.pdf