Nhận thức về nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa
NHẬN THỨC VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TS. Nguyễn Văn Tuân
Khoa Luật – Trường Đại học Thành Đông
TÓM TẮT
Trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về Nhà nước
pháp quyền. Nhà nước pháp quyền không phải là sản phẩm riêng của xã hội tư bản
mà có thể được xây dựng trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Bài viết đề cập đến sự hình
thành tư tưởng về Nhà nước pháp quyền và phân tích nhận thức về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Từ khóa: Nhà nước; Nhà nước pháp quyền; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
ABSTRACT
In recent years, a lot of research on the rule of law state was carried out. The
rule of law state is not a unique product of capitalist society but can be built in a
socialist society. The article deals with the formation of ideas about the rule of law
state and analyzes the perception of the socialist rule of law state in Vietnam.
Keywords: State; The rule of law state; Socialist rule of law state.
Trong lịch sử phát triển xã hội loài
người từ khi có Nhà nước đến nay việc
nghiên cứu về nhà nước luôn là vấn đề
đặt ra trong hệ tư tưởng của các giai cấp
và việc đánh giá vị trí, vai trò, chức
năng của Nhà nước cũng dựa trên quan
điểm giai cấp. Những quan điểm lý
luận về Nhà nước pháp quyền được
hình thành và phát triển cùng quá trình
phát triển của xã hội loài người.
con người, từng là mục tiêu tập hợp lực
lượng của các cuộc cách mạng tư sản ở
Mỹ và Tây Âu thế kỷ XVIII, nhằm lật
đổ chế độ phong kiến chuyên chế. Lịch
sử tư tưởng nhân loại trong đó có học
thuyết về Nhà nước pháp quyền đã để
lại những giá trị tiến bộ, nhân văn, dân
chủ như là những thành quả tinh thần
của nhân loại mà chúng ta cần tiếp thu
trên cơ sở có chọn lọc để áp dụng vào
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.1
Tư tưởng Nhà nước pháp quyền đã
sớm xuất hiện ở phương Tây và chừng
mực nào đó ở cả phương Đông với
những biểu hiện ở các mức độ khác
nhau, dần dần đã được hình thành như
một học thuyết chính trị – pháp lý quan
trọng trong thời kỳ cách mạng tư sản ở
Tây Âu thế kỷ XVII - XVIII. Với
những giá trị tiến bộ và nhân văn của
mình, tư tưởng về Nhà nước pháp
quyền đã có tác động quan trọng đến
quá trình đấu tranh vì dân chủ, vì quyền
Cho đến thế kỷ XVIII, Nhà nước
pháp quyền đã xuất hiện ở Tây Âu với
tư cách là một học thuyết chính trị -
pháp lý. Những quan điểm về Nhà nước
pháp quyền được hình thành và phát
triển phụ thuộc vào điều kiện phát triển
kinh tế- xã hội, chế độ chính trị của mỗi
1Báo cáo phúc trình Đề tài KX04.01 “Cơ
sở lý luận và thực tiễn về nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân”, 2005, tr. 261.
nước, vào truyền thống văn hoá của
mỗi dân tộc. Đến nay không ai có thể
phủ nhận được giá trị của tư tưởng về
Nhà nước pháp quyền, về vai trò to lớn
của mô hình Nhà nước pháp quyền đối
với sự phát triển của mỗi quốc gia trên
thế giới. Tư tưởng về Nhà nước pháp
quyền là tinh hoa văn hoá của nhân
loại, được hình thành và phát triển ở
mỗi quốc gia phụ thuộc vào điều kiện
của từng nước.
chế độ ra các đạo luật. Và chính yêu
cầu này đã được thể hiện ở mức độ cao
hơn trong diễn ca: “Bảy xin hiến pháp
ban hành. Trăm điều phải có thần linh
pháp quyền”4. Tuy câu ca dao đó ra đời
cách đây hơn một thế kỷ, vẫn thể hiện
được tinh thần xây dựng một nhà nước
dân chủ, thực hiện theo nguyên tắc
pháp chế, pháp quyền và nó vẫn còn giá
trị thời sự và có ý nghĩa trong việc xây
dựng một Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân.5
Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật,
về Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân là cơ sở tư tưởng rất quan
trọng định hướng quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam. Việt Nam đã tiếp nhận có
chọn lọc những giá trị phổ biến, tiến bộ
của học thuyết Nhà nước pháp quyền
của nhân loại để vận dụng vào trong
điều kiện cụ thể của mình. Việc đổi mới
tư duy chính trị – pháp lý của Đảng ta
trong công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước đã khẳng định rằng Nhà nước
pháp quyền đã có chỗ đứng trong nhận
thức và trong thực tiễn ở Việt Nam.2
Tư tưởng về chế độ pháp trị, về quản
lý xã hội bằng pháp luật đã được nhà
yêu nước Nguyễn Ái Quốc nêu ra vào
năm 1919 trong yêu sách thứ 7 của bản
“ Yêu sách của nhân dân An nam”3. Đó
là phải thay chế độ ra các sắc lệnh bằng
Đối với nhà nước ta, tính giai cấp
gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc và tính
nhân dân. Tư tưởng xây dựng một nhà
nước của dân, do dân, vì dân bắt nguồn
từ truyền thống đại đoàn kết của dân
tộc ta trong mấy nghìn năm dựng nước
và giữ nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết: “Nước ta là một nhà nước dân
chủ, bao nhiêu lợi ích là vì dân, bao
nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính
quyền từ xã đến Chính phủ trung ương
đều do dân cử ra”6. Bài học lấy dân
làm gốc với tư tưởng bao nhiêu lợi ích
đều vì dân, bao nhiêu quyền hành đều
của dân, Nhà nước do dân bầu ra và
kiểm tra, giám sát càng trở lên quan
trọng trong sự phát triển nhà nước ta
hiện nay. Tư tưởng của Hồ Chí Minh
4 Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 1, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 438.
5
Các nội dung cơ bảnTư tưởng Hồ Chí
minh về một nhà nước kiểu mới - Nhà
nước thực sự của dân, do dân, vì
dân,Thông tin khoa học pháp lý, Bộ Tư
pháp, Hà Nội, 1998, tr. 84.
2
Báo cáo phúc trình Đề tài KX04.01 “Cơ
sở lý luận và thực tiễn về nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân”, 2005, tr. 261.
3 Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 1, Nxb. Chính
6 Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 5, Nxb.
trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 436.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 698.
về nhà nước của dân, do dân, vì dân đã
được Đảng và Nhà nước ta phát triển và
vận dụng trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở Việt nam. Trong xã
hội ta, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải
là nhà nước của nhân dân, phục vụ nhân
dân và sức mạnh của nhà nước bắt nguồn
từ sức mạnh của nhân dân.
trong thực tiễn, từ đó xây dựng mô hình
lý luận cho Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Ở Việt Nam đã có những tiền đề cơ
bản cho việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân là mục tiêu mà chúng ta
hướng tới. Do đặc điểm của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam phải vượt qua nhiều
trở ngại, thử thách, chịu sự chi phối của
nhiều điều kiện lịch sử, truyền thống,
kinh tế, văn hoá…, vì vậy, cần có
phương hướng và các bước đi thích hợp
trong quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền.8
Nhà nước pháp quyền không phải là
sản phẩm riêng của xã hội tư bản chủ
nghĩa mà có thể được xây dựng trong
xã hội xã hội chủ nghĩa. Về nguyên lý,
có Nhà nước pháp quyền tư bản chủ
nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa khác với Nhà nước pháp
quyền tư sản ở mục tiêu, chức năng và
nhiệm vụ. Sự khác nhau đó được quy
định bởi cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội
của chế độ xã hội chủ nghĩa.7
Sau công cuộc đổi mới được Đảng ta
khởi xướng và thực hiện thì những
nhận thức về Nhà nước pháp quyền có
những biến đổi tích cực, hướng dần đến
giá trị đích thực của nó. Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI bắt đầu nêu ra vấn
đề cải cách bộ máy nhà nước theo
hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Vào thời điểm này đã có nhiều bài viết,
công trình nghiên cứu về Nhà nước
pháp quyền. Đảng và Nhà nước ta đã
quan tâm đến vấn đề Nhà nước pháp
quyền và coi trọng việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền là một trong những
nhiệm vụ trung tâm của đổi mới hệ
thống chính trị ở nước ta.
Trong lịch sử, các tư tưởng, quan
điểm về Nhà nước pháp quyền đều cho
rằng Nhà nước pháp quyền là sự tuân
thủ pháp luật, bị ràng buộc bởi pháp
luật và có cơ chế bảo đảm cho pháp luật
có hiệu lực trên thực tế. Nhà nước pháp
quyền là giá trị chung của nhân loại; nó
được vận dụng vào điều kiện cụ thể của
mỗi quốc gia để xây dựng và hoàn thiện
nhà nước ở đó.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa có những đặc trưng cơ bản,
những đặc trưng này là không thể thay
thế, nó giúp chúng ta nhận diện đầy đủ
về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong nhận thức lý luận cũng như
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII thông qua “Cương lĩnh xây dựng
7 Báo cáo phúc trình Đề tài KX04.01 “Cơ sở
lý luận và thực tiễn về nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”, 2005,
tr. 261, 262.
8 Báo cáo phúc trình Đề tài KX04.01 “Cơ sở lý
luận và thực tiễn về nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”, 2005,
tr. 262.
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội”, trong đó xác định một số
yếu tố quan trọng, cốt lõi của việc xây
dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa và xây dựng nhà nước theo
nguyên tắc pháp quyền.
thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ
chức, cán bộ, công chức, mọi công dân
có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và
pháp luật”10.
Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở Việt nam được Hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII
khẳng định. Trong văn kiện Hội nghị
nêu rõ: “Tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền Việt nam.
Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời
sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất
nước phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”9.
Sự khẳng định này thể hiện sự quyết
tâm của Đảng ta trong việc xây dựng
mô hình nhà nước kiểu mới, nhà nước
của dân, do dân, vì dân. Từ đó đòi hỏi
cần phải sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
năm 1992 cho phù hợp với tình hình
mới. Điều 2 của Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã khẳng
định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân; tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức”11.
Nghị quyết Ban chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 8 khoá VII, văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ 3 khoá VIII đã từng bước
đề cập đến vấn đề Nhà nước pháp
quyền, làm rõ hệ thống quan điểm,
nguyên tắc cơ bản về xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở Việt nam.
Các Đại hội lần thứ X và XI tiếp tục
khẳng định việc xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng lãnh đạo, thực hiện tốt
chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã
hội, giải quyết đúng mối quan hệ giữa
Nhà nước với các tổ chức khác trong
hệ thống chính trị, với nhân dân, với
thị trường.
Đặc biệt Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX đã khẳng định nhiệm vụ xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân: “Nhà
nước ta là công cụ chủ yếu để thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân, là
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân. Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc
10
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 131, 132.
11 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2001), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002.
9
Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khoá VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1994, tr. 56.
Kế thừa các quy định của Hiến pháp
năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm
2001), Hiến pháp năm 2013 khẳng
định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân” (Điều 2)
và “Nhà nước bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân; công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm
quyền con người, quyền công dân;
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
mọi người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện” (Điều 3)12.
nêu rõ: “Xây dựng Nhà nước pháp
quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập
pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến
hành đồng bộ với đổi mới hệ thống
chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực
hiệu quả: gắn với đổi mới kinh tế, văn
hóa, xã hội, tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo
vệ Hiến pháp và pháp luật”14.
Trong văn kiện Đại hội lần thứ XIII
nêu rõ: “Tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo
là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ
thống chính trị. Nâng cao năng lực,
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà
nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí,
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên
tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công
rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng
cường kiểm soát quyền lực nhà
nước”15. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII
đề ra nhiệm vụ “Nghiên cứu, ban hành
Chiến lược hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến
năm 2030, định hướng đến năm 2045,
trong đó có Chiến lược pháp luật và cải
cách tư pháp”16.
Lý tưởng tốt đẹp của Nhà nước pháp
quyền nói chung và Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân nói riêng thể
hiện ở bản chất dân chủ, theo đó chủ
quyền nhân dân được bảo đảm, quyền
con người với tư cách là quyền tự nhiên
vốn có của con người phải được tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm. Muốn vậy, tin
thần thượng tôn pháp luật, trách nhiệm
pháp lý, trách nhiệm phục vụ của Nhà
nước trước nhân dân phải được đề cao13.
Trong Báo cáo chính trị của Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng xác định nhiệm vụ tiếp
tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó
14 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội,
2016, tr. 175.
12
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
15
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb. Hồng
Đức, Hà Nội, 2014.
Hiến pháp năm 2013 – Những điểm mới
mang tính đột phá, Nxb. Tư pháp, Hà Nội,
thứ XIII, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự
13
thật, Hà Nội, 2021, tr. 174, 175.
16
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
2015, tr. 32, 33.
Một trong những quan điểm cơ bản
của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở Việt nam là quan điểm về
quyền lực nhà nước thống nhất trên cơ
sở phân công và phối hợp trong việc
thực hiện ba quyền: lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Sự thống nhất là nền
tảng, sự phân công và phối hợp là
phương thức để đạt được sự thống nhất
của quyền lực nhà nước.
ứng các yêu cầu của mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Quyền hành pháp phải tập trung và
thống nhất vào Chính phủ. Để thực hiện
có hiệu quả, nhất là trong điều kiện
kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa thì Chính phủ cần phải đổi
mới từ cơ cấu đến cơ chế vận hành.
Mặc dù có nhiều đổi mới và cải cách,
nhưng tổ chức và hoạt động của bộ máy
hành chính nước ta từ trung ương đến
địa phương vẫn còn có những hạn chế,
bất cập nhất định. Chế độ hành pháp
chưa thông suốt, chưa có sự phân cấp
trách nhiệm rõ ràng. Vì vậy, Đảng và
Nhà nước ta có chủ trương tiếp tục cải
cách hành chính nhằm xây dựng bộ máy
hành chính gọn nhẹ, có hiệu quả.
Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ
máy nhà nước đã xác định sự phân
công, phân nhiệm về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn giữa ba quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Việc phân công
quyền lực nhà nước không mang tính
tuyệt đối và không hẳn đã giải quyết
được mọi vấn đề trước đòi hỏi ngày
càng cao của xã hội. Vì thế việc nghiên
cứu, tìm tòi để tìm ra mô hình tổng thể
một nhà nước hoạt động có hiệu quả ở
Việt nam là hết sức cần thiết.
Một trong những nguyên tắc phân
công và phối hợp quyền lực nhà nước
và cải cách hành chính là phân công,
phân cấp giữa trung ương và địa
phương, kết hợp quản lý chặt chẽ theo
lãnh thổ, bảo đảm thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp
quyền phụ thuộc rất nhiều vào việc xây
dựng pháp luật mà nhiệm vụ trọng tâm
là hoạt động lập pháp của Quốc hội.
Hoạt động lập pháp đang đứng trước
nhiệm vụ khó khăn và phức tạp là làm
sao hình thành hệ thống pháp luật điều
chỉnh được các mối quan hệ phát sinh
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước phát triển theo kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
hợp tác và hội nhập quốc tế. Nhà nước
pháp quyền đòi hỏi phải có một hệ
thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh
các mối quan hệ trong xã hội và đáp
Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp,
đường lối của Đảng, pháp luật của
Nhà nước đều thể hiện yêu cầu về
bình đẳng, công bằng, về sự độc lập
xét xử của Toà án, về bảo vệ các
quyền cơ bản của công dân, quyền con
người. Quyền tư pháp là lĩnh vực
quyền lực quan trọng và việc thực thi
quyền tư pháp ảnh hưởng trực tiếp
đến quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền. Có thể nói tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp
hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu
của công cuộc đổi mới, của việc xây
thứ XIII, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự
thật, Hà Nội – 2021, tr. 177.
dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt
nam. Vì vậy, Nghị quyết 49-NQ/TW
ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị về
Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm
2020 đã nhấn mạnh đến mục tiêu và
các nhiệm vụ cải cách tư pháp.
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, cần tiếp tục nghiên
cứu những vấn đề mới về lý luận trong
quá trình chuyển đổi của đất nước và
của các yếu tố quốc tế. Tiến hành đổi
mới tiếp tục hệ thống chính trị, cải
cách mạnh mẽ bộ máy nhà nước, thực
hiện chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, tổ
chức tốt việc thi hành pháp luật. Xây
dựng cơ chế phản biện xã hội và giám
sát xã hội, tạo cơ sở pháp lý quan trọng
cho xã hội dân sự hoạt động bình
thường và lành mạnh.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, sống và làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật là yêu cầu của Nhà nước
pháp quyền. Tất cả các cơ quan nhà
nước, tổ chức và mọi cá nhân đều phải
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Sự
hoàn thiện pháp luật, tăng cường pháp chế
cần được tiến hành trên cả ba lĩnh vực xây
dựng, thi hành và bảo vệ pháp luật.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam và đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước, bảo đảm cho sự ổn
định và phát triển của đất nước trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và hội nhập
kinh tế quốc tế, hướng tới mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.17
Pháp luật của Nhà nước ta thể chế
đường lối, chính sách của Đảng, phản
ánh lợi ích của nhân dân. Pháp luật là
cơ sở, phương thức đối với tổ chức và
hoạt động của Nhà nước. Nhà nước làm
ra luật nhưng cũng phải có trách nhiệm
trước pháp luật. Cần phải xác định rõ
trách nhiệm pháp lý của cơ quan nhà
nước, cán bộ, công chức trong việc bảo
đảm và tôn trọng quyền của công dân.
Nhà nước phải có trách nhiệm trước
công dân, phải bồi thường cho công dân
trong trường hợp lợi ích hợp pháp của
họ bị cơ quan nhà nước vi phạm. Nhà
nước pháp quyền đòi hỏi pháp luật phải
được thực hiện nghiêm chỉnh và thống
nhất. Chỉ có trong khuôn khổ của Hiến
pháp và pháp luật, tự do và dân chủ mới
có ý nghĩa và giá trị thực tế. Vì vậy,
nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền là phải
hoàn thiện pháp luật trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, đặc biệt cần
chú ý đến lĩnh vực tự do và dân chủ
của công dân.
17Báo cáo phúc trình Đề tài KX 04.01 “Cơ sở
lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”,
2005, tr. 262, 263.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
[1] Báo cáo phúc trình Đề tài KX04.01 “Cơ sở lý luận và thực tiễn về nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”, 2005.
[2] Các nội dung cơ bản Tư tưởng Hồ Chí minh về một nhà nước kiểu mới - Nhà nước
thực sự của dân, do dân, vì dân, Thông tin khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Hà Nội, 1998.
[3] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
[4] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
[5] Hiến pháp năm 2013 – Những điểm mới mang tính đột phá, Nxb. Tư pháp.
[6] Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1994.
[7] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
[8] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng TW Đảng, Hà Nội, 2016.
[9] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự
thật, Hà Nội, 2021.
Bạn đang xem tài liệu "Nhận thức về nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
nhan_thuc_ve_nha_nuoc_phap_quyen_xa_hoi_chu_nghia.pdf