Nhận diện tiền mã hóa, pháp luật Việt Nam về tiền mã hóa
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
NHẬN DIỆN TIỀN MÃ HÓA, PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TIỀN MÃ HÓA
Lê Hồng Thái*
* ThS. Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.
Tóm tắt:
Thông tin bài viết:
Hiện nay, vấn đề tiền mã hóa đang được nhiều người quan tâm với nhiều tên gọi
khác nhau (tiền ảo, tài sản mã hóa…). Trên cơ sở phân tích kinh nghiệm quốc tế
cũng như một số nghiên cứu tại Việt Nam, tác giả trình bày làm rõ bản chất của
tiền mã hóa, phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về tiền mã hóa và
đưa ra các khuyến nghị hoàn thiện các quy định này.
Từ khóa: Tiền ảo, tiền mã hóa,
tài sản mã hóa.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài
Biên tập
Duyệt bài
: 13/3/2021
: 25/3/2021
: 27/3/2021
Abstract:
Article Infomation:
Currently, cryptocurrencies has received a lot of scrutinies through various
names (virtual currencies, crypto assets…). Based on reviews of the international
experience as well as related studies of Vietnamese researchers, the author clarifies
the concept of cryptocurrencies, provides assessments of several matters stemming
from Vietnamese laws, and then gives an initial recommendation to develop and
improve the crypto legislation accordingly.
Keywords: Virtual currency; crypto
currency; crypto assets.
Article History:
Received
Edited
: 13 Mar. 2021
: 25 Mar. 2021
: 27 Mar. 2021
Approved
1. Nhận diện tiền mã hóa
Tiền ảo là khái niệm được sử dụng nhiều tại
Việt Nam. Tuy vậy, vào năm 2018, theo Quỹ
Tiền tệ quốc tế (IMF), loại “tài sản” này có
tiềm năng kết hợp lợi ích của tiền tệ và hàng
hóa, nên việc sử dụng từ “tiền” trong các thuật
ngữ nêu trên có thể gây nhầm lẫn3. Trong khi
đó, những đối tượng này được tạo lập trên cơ
Tiền mã hóa (crypto currency) đang
được tiếp cận dưới nhiều khía cạnh, nhiều
hình thức khác nhau và cũng chưa có một
thuật ngữ chung thống nhất1, như tiền ảo
(virtual currency), tài sản mã hóa (crypto
assets)2,…
1 Nguyễn Thanh Tú, “Thực trạng quản lý và lưu hành tài sản mã hóa ở Việt Nam và những vấn đề pháp lý đặt
ra”, Tham luận tại Hội thảo “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và một số vấn đề pháp lý về hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường”, Hà Nội, ngày 30/7/2020, tr.3.
2 Bitcoin, được một người lấy tên là Satoshi Nakamoto tạo lập vào tháng 01/2009, là một ví dụ điển hình, có
thể được coi là tiền mã hóa đầu tiên và hiện nay là tiền mã hóa có giá trị vốn hóa lớn nhất với cộng đồng sử
dụng rất đông, ở nhiều nơi trên thế giới. Xem tại: Nguyễn Thanh Tú, “Thực trạng quản lý và lưu hành tài sản
mã hóa ở Việt Nam và những vấn đề pháp lý đặt ra”, tlđd, tr.2.
3
Internaltional Monetary Fund (IMF), Global Financial Stability Report: A Bumpy Road Ahead, 4/2018,
p. 21-23. Xem https://www.imf.org/en/Publications/GFSR/Issues/2018/04/02/Global-Financial-Stability-
Report-April-2018#:~:text=Chapter%201%3A%20A%20Bumpy%20Road,somewhat%20since%20the%20
previous%20GFSR.&text=Emerging%20market%20have%20generally%20improving,tightening%20of%20
global%20financial%20conditions, truy cập ngày 10/03/2021.
Số 08(432) - T4/2021
43
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
sở sử dụng công nghệ blockchain4 kết hợp kỹ
thuật mã5. Do đó, IMF khuyến nghị sử dụng
thuật ngữ tài sản mã hóa cho loại “tài sản”
này. Sau đó, tại một văn kiện của Ngân hàng
Trung ương châu Âu (ECB) cũng chỉ ra quan
điểm rằng, tiền ảo (virtual currencies) là một
khái niệm về tài sản rộng hơn so với tài sản mã
hóa6. Bởi vậy, ở Nhật Bản, mặc dù thuật ngữ
tiền ảo được đưa vào Luật Dịch vụ thanh toán
trong lần sửa đổi vào tháng 4/2016 (có hiệu lực
từ ngày 01/4/2017)7, nhưng trong lần sửa đổi
tiếp theo vào tháng 5/2019 (có hiệu lực từ ngày
07/6/2020), thuật ngữ “tài sản mã hóa” đã được
sử dụng để thay thế thuật ngữ “tiền ảo”8.
một quốc gia, vùng lãnh thổ nào; không được
bất cứ một quốc gia, vùng lãnh thổ nào phát
hành hoặc bảo đảm; các chức năng trên chỉ
được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận trong
cộng đồng người sử dụng của loại tiền ảo đó9.
Tương tự như vậy, Chỉ thị số 2108/843
ngày 30/5/2018 của Liên minh châu Âu
(EU) liên quan đến phòng, chống rửa tiền,
tài trợ khủng bố đã chỉ ra tiền ảo có nghĩa
là một đại diện kỹ thuật số của giá trị không
được phát hành hoặc bảo đảm bởi một ngân
hàng trung ương hoặc cơ quan nhà nước,
không gắn với tiền pháp định hay mang giá
trị pháp lý như tiền pháp định, nhưng được
cá nhân hoặc pháp nhân chấp nhận như một
phương tiện trao đổi và có thể được chuyển
giao, lưu trữ và giao dịch điện tử10.
Tiền ảo, theo Lực lượng đặc nhiệm về hoạt
động tài chính (FATF), là một biểu hiện của
giá trị dưới dạng số có thể có trong giao dịch
kỹ thuật số và có các chức năng như: (i) Một
phương tiện trao đổi; và/hoặc (ii) Một đơn vị
kế toán; và/hoặc (iii) Một hình thức lưu trữ giá
trị nhưng không phải là tiền pháp định trong
Cũng theo Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn
hóa (ISO)11, tiền ảo là loại tài sản ảo có tính
chất tiền tệ, tức là có thể được sử dụng làm
phương tiện trao đổi hay một tài sản có giá
4 Blockchain là công nghệ chuỗi - khối, một dạng sổ cái phân tán, cho phép truyền tải dữ liệu một cách an toàn
trên không gian mạng dựa trên hệ thống mã hóa vô cùng phức tạp, tương tự như cuốn sổ cái kế toán của một
công ty, nơi mà tiền được giám sát chặt chẽ và ghi nhận mọi giao dịch trên mạng ngang hàng.
5 Phan Chí Hiếu, Nguyễn Thanh Tú (chủ biên), Một số vấn đề pháp lý về tài sản mã hóa, tiền mã hóa, Nxb.
Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2019, tr.33.
6
European Central Bank (ECB), Crypto-Assets: Implications for financial stability, monetary policy, and
op223~3ce14e986c.en.pdf, truy cập ngày 10/3/2021.
7 Trước đó, Luật Dịch vụ thanh toán của Nhật Bản (được ban hành vào năm 2009, có hiệu lực từ năm 2010)
không có quy định liên quan đến tiền mã hóa. Xem Stewart Plant, Yoshiko Kawanami, International briefings
kawanami-yoshiko/win_wise_japanese_law_v9.ashx, truy cập ngày 12/03/2021.
8
T. Omagari, Y. Sako, Japan’s New Crypto Regulation: 2019 Amendments to Payment Services Act and
klgates.com/Japans-New-Crypto-Regulation-2019-Amendments-to-Payment-Services-Act-and-Financial-
Instruments-and-Exchange-Act-of-Japan-11-26-2019, truy cập ngày 10/03/2021.
9
Financial Action Task Force (FATF), Virtual Currency: Key Definitions and Potential AML/CFT Risks,
and-potential-aml-cft-risks.pdf, truy cập ngày 11/03/2021.
10
Directive (eu) 2018/843 of the European parliament and of the council of amending Directive (EU) 2015/849 on the
prevention of the use of the financial system for the purposes of money laundering or terrorist financing, and amending
11
ISO/IEC 27032:2012(en), Information Technology - Security Techniques - Guidelines for Cybersecurity,
44
Số 08(432) - T4/2021
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
trị trong một môi trường cụ thể như trò chơi
điện tử hay trong một trò chơi mô phỏng
giao dịch tài chính.
dụng xem là có giá trị (là tài sản) với tư cách
là một khoản đầu tư vào/hoặc phương tiện
trao đổi. Việc kiểm soát hoạt động cung ứng
tài sản mã hóa và thỏa thuận về việc chuyển
giao tài sản mã hóa không được thực hiện bởi
một bên trung gian nào mà được thực hiện
bởi việc sử dụng kỹ thuật mật mã. Tài sản mã
hóa đã được kích hoạt bởi công nghệ sổ cái
phân tán (DLT12). Công nghệ này cho phép
việc cung cấp tài sản mã hóa được kiểm soát
và giới hạn bằng cách cho phép người dùng
kiểm tra các liên kết mật mã chứng nhận tính
nhất quán của các bản cập nhật thông tin theo
thời gian và bảo đảm rằng không có sự tạo ra
tài sản mã hóa không chính đáng13.
Có thể thấy, những khái niệm tiền ảo trên
đang còn rất rộng, có thể bao gồm cả những
vật phẩm trong các game trực tuyến (game
online), điểm thưởng của chương trình khách
hàng thân thiết (như chương trình tích điểm
VinMart…). Đây chỉ là các tài sản được
hình thành trên môi trường kỹ thuật số thông
thường hoặc cơ bản đã được điều chỉnh bởi
pháp luật hiện hành (hoặc hợp đồng giữa nhà
phát hành hoặc người sở hữu). Trong khi đó,
tài sản mã hóa được tạo dựng trên cơ sở nền
tảng ứng dụng công nghệ blockchain và kỹ
thuật mã hóa trong một hệ thống máy tính,
đang thu hút được sự quan tâm nghiên cứu,
đầu tư, kinh doanh của nhiều tổ chức, cá nhân
do những kỳ vọng về ưu điểm vượt trội mà
công nghệ blockchain đem lại.
Thêm vào đó, theo Tổ chức quốc tế của
các ủy ban chứng khoán (IOSC), tài sản mã
hóa, với giá trị nội tại hay giá trị được đánh
giá, là một loại tài sản tư nhân, sử dụng công
nghệ DLT hay tương tự và kỹ thuật mã hóa.
Tài sản mã hóa có thể đại diện cho một tài sản
hay quyền sở hữu một tài sản, như: tiền, hàng
hóa, chứng khoán hoặc một loại phái sinh
(derivative) của hàng hóa hay chứng khoán14.
Về tài sản mã hóa, theo Ngân hàng Trung
ương châu Âu, đây là thuật ngữ dùng để chỉ
bất kỳ tài sản nào được ghi nhận ở hình thức
kỹ thuật số. Nó không phải và không đại diện
cho bất kỳ yêu cầu tài chính nào hay nghĩa vụ
tài chính của một cá nhân hay pháp nhân nào.
Nó cũng không hàm chứa quyền đối với tài
sản. Tuy nhiên, tài sản mã hóa được người sử
Dựa trên thực tế sử dụng và bản chất kinh tế
liên quan, tài sản mã hóa hiện nay được nhiều
chuyên gia, tổ chức và thậm chí cơ quan quản
lý nhà nước phân thành ba nhóm chính15:
12 Sổ cái phân tán là một bản ghi thông tin hoặc cơ sở dữ liệu được chia sẻ trên một mạng. Từ góc độ kỹ thuật,
nó có thể được sử dụng; ví dụ, để ghi lại các giao dịch trên các địa điểm khác nhau. Một trong những công
nghệ làm cho điều này trở nên khả thi được gọi là “blockchain”. Tên gọi này xuất phát từ thực tế là một số giải
pháp DLT lưu trữ tất cả các giao dịch riêng lẻ theo nhóm hoặc khối, được gắn với nhau theo thứ tự thời gian để
tạo ra một chuỗi dài. Chuỗi dài này được kết hợp với nhau bằng cách sử dụng mật mã, do đó đảm bảo tính bảo
mật và tính toàn vẹn của dữ liệu. Chuỗi này sau đó tạo thành một bản ghi các giao dịch mà người dùng của nó
coi là bản ghi chính thức. Ngoài blockchains, sổ cái đồng thuận là một loại DLT khác; theo đó, thay vì nhóm
và chuỗi các giao dịch, chỉ số dư tài khoản của thành viên được cập nhật sau mỗi vòng xác thực. Xem Pinna,
A. and Ruttenberg, “Distributed ledger technologies in securities post-trading. Revolution or Evolution?”,
Occasional Paper Series, No.176, European Central Bank, Frankfurt am Main, April, W. (2016).
13
European Central Bank (ECB), Crypto-Assets: Implications for financial stability, monetary policy, and
payments and market infrastructures, May 2019, p.7. Xem https://www.ecb.europa.eu/pub/pdf/scpops/ecb.
op223~3ce14e986c.en.pdf, truy cập ngày 10/3/2021.
14 IOSC, Issues, Risks and Regulatory Considerations Relating to Crypto-Asset Trading Platforms, FR02/2020,
15
FINMA, Guidelines for Enquiries Regarding the Regulatory Framework for Initial Coin Offerings,
16/02/2018, p.3-8; FCA, Guidance on Cryptoassets, CP19/3, 01/2019, p. 8-9.
Số 08(432) - T4/2021
45
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Thứ nhất, tài sản mã hóa tương tự chứng
khoán (security token), là một loại tài sản mã
hóa có các đặc trưng của chứng khoán theo
pháp luật chứng khoán của quốc gia, là bằng
chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp
của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần
vốn (tương tự trái phiếu hay cổ phiếu) của
người phát hành ra tài sản mã hóa đó. Nói
cách khác, nếu tài sản mã hóa, thông thường
được bán cho người mua qua hình thức phát
hành ra công chúng, là một khoản đầu tư của
người mua vào doanh nghiệp phát hành thì
đó là (tương tự là) chứng khoán.
một cách minh bạch, bảo mật, đáng tin cậy;
(iv) là một dạng tài sản mã hóa phi chứng
khoán, có chức năng tương tự phương tiện
trao đổi, thanh toán; (v) được tin tưởng và
có thể được sử dụng trong một cộng đồng
nhất định mà không cần qua trung gian
tập trung.
2. Pháp luật Việt Nam về tiền mã hóa
Trên thực tế, tiền mã hóa đang đặt ra
nhiều câu hỏi cho pháp luật Việt Nam bởi
ba vấn đề:
- Tiền mã hóa có thể được “sở hữu” và
người “nắm giữ” tiền mã hóa có thể bảo vệ
quyền “sở hữu” nhờ các cơ chế công nghệ
tương tự như tài sản16. Như vậy, tiền mã hóa
có nên được coi là tài sản?
Thứ hai, tài sản mã hóa tương tự phương
tiện trao đổi, thanh toán (exchange/payment
token), còn có thể được gọi là tiền mã hóa, là
một loại tài sản mã hóa được tin tưởng và có
thể được sử dụng tương tự như một phương
tiện trao đổi, thanh toán trong một cộng đồng
nhất định mà không cần qua trung gian tập
trung. Bitcoin là một ví dụ điển hình.
- Tiền mã hóa có nên được công nhận là
hàng hóa, dịch vụ hay không? Khi mà trên
thực tế, nó đang được trao đổi, mua bán, lưu
thông tương tự hàng hóa hoặc được sử dụng
như một dạng dịch vụ.
Thứ ba, tài sản mã hóa là phương tiện để
tiếp cận và sử dụng một dịch vụ nhất định
trong một hệ sinh thái được phát triển trên
nền tảng công nghệ blockchain, còn gọi là
xu (mã) tiện ích (utility token) hay xu (mã)
tiếp cận (access token). Nếu thuộc trường
hợp này, tài sản mã hóa được coi như một
loại tài sản truyền thống thông thường.
- Tiền mã hóa có thể trở thành phương
tiện thanh toán trong một cộng đồng nhất
định. Vậy tiền mã hóa có thể là phương tiện
thanh toán hay không?
2.1. Dưới góc độ là tài sản
Theo quy định của Điều 105 Bộ luật Dân
sự (BLDS) năm 2015, tài sản bao gồm vật,
tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Do đó,
tiền mã hóa có được coi là tài sản theo pháp
luật dân sự Việt Nam hay không cần đánh
giá thông qua bốn loại tài sản trên:
Như vậy, tiền mã hóa (như Bitcoin,
Ethereum, Litecoin, XRP…) là một dạng
của tài sản mã hóa. Về cơ bản, có thể hiểu,
tiền mã hóa là: (i) biểu hiện của giá trị dưới
dạng số (vô hình); (ii) không được quốc gia
hay ngân hàng trung ương nào bảo đảm;
(iii) được tạo ra trên cơ sở sử dụng công
nghệ blockchain hay DLT kết hợp kỹ thuật
mã hóa nhằm tạo lập và xác thực giao dịch
Thứ nhất, đối với tài sản là vật: Theo quy
định của BLDS năm 2015, “vật” là những
bộ phận hữu hình của thế giới vật chất theo
nghĩa rộng bao gồm cả vật vô cơ, hay hữu
cơ, động vật hay thực vật17. Khái niệm vật
16 Nguyễn Thanh Tú, “Thực trạng quản lý và lưu hành tài sản mã hóa ở Việt Nam và những vấn đề pháp lý đặt ra”,
tlđd, tr. 3.
17 Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Đề tài Khoa học cấp Bộ “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm
2015”, TS. Đinh Trung Tụng (Chủ nhiệm), 2017, tr. 169.
46
Số 08(432) - T4/2021
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
trong pháp luật dân sự rộng hơn khái niệm
vật trong cách hiểu đời sống thực tế. Vật
bao hàm không những các vật dụng sinh
hoạt, tiêu dùng, sản xuất bình thường, mà
còn bao gồm cả các tập hợp vật chất phức
tạp như nhà máy, công xưởng, tuyến giao
thông đường sắt, sân bay, giàn khoan dầu,
hệ thống công trình xây dựng... Trong khi
đó, tiền mã hóa là vô hình; bởi vậy, không
phải là “vật”.
Thứ ba, đối với tài sản là giấy tờ có giá19:
Giấy tờ có giá là một hình thức pháp lý
thể hiện giá trị, mang nội dung khẳng định
quyền tài sản của một người (người nắm giữ
giấy tờ có giá) đối với chủ thể khác (chủ thể
phát hành giấy tờ có giá), được pháp luật
công nhận là một loại tài sản. Tiền mã hóa
không có chức năng giống tài sản mã hóa
tương tự chứng khoán. Do đó, theo pháp
luật Việt Nam, tiền mã hóa sẽ không là giấy
tờ có giá.
Thứ hai, đối với tài sản là tiền: Măc dù
theo quy định của BLDS năm 2015, tiền là
một loại tài sản, nhưng pháp luật hiện hành
của nước ta không định nghĩa cụ thể thế nào
tiền. Trên thực tế, ở Việt Nam hay ở các quốc
gia khác trên thế giới, tiền pháp định có thể
tồn tại dưới dạng tiền giấy, tiền kim loại.
Ngoài ra, theo quy định của Điều 4 Nghị
định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012
đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số
80/2016/NĐ-CP ngày 01/7/201618 về thanh
toán không dùng tiền mặt, phương tiện
thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng
phương tiện thanh toán bao gồm: séc, lệnh
chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu,
thẻ ngân hàng và các phương tiện thanh
toán khác theo quy định của Ngân hàng
Nhà nước (như thanh toán qua ví điện tử).
Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt
Nam, tiền mã hóa không phải là tiền pháp
định hay phương tiện thanh toán.
Thứ tư, đối với tài sản là quyền tài
sản: Điều 115 BLDS năm 2015 quy định:
“Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng
đất và các quyền tài sản khác”. Trong đó,
quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất hay
quyền đòi nợ20 đều giá trị được bằng tiền
và được pháp luật Việt Nam thừa nhận là
một dạng tài sản. Ngoài ra, việc BLDS năm
2015 quy định mở về “các quyền tài sản
khác” nhằm bao quát các trường hợp chưa
dự liệu được ngay tại thời điểm ban hành,
cũng như tạo điều kiện linh hoạt hơn cho
pháp luật chuyên ngành có thể quy định cụ
thể về các quyền tài sản mới phát sinh trong
tương lai. Ở khía cạnh này, tiền mã hóa cũng
tương tự như quyền tài sản với đặc điểm vô
hình có thể trị giá được bằng tiền, được xác
lập, chuyển giao quyền sở hữu21. Mặt khác,
18 Sau đây gọi tắt là Nghị định số 101/2012/NĐ-CP.
19 Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng
xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời
hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”. Khoản 9 Điều 3 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày
29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 83/2010/NĐ-CP
ngày 23/7/2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm và Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/2/2012
của Chính phủ) quy định: “Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng
chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật trị giá được thành tiền và
được phép giao dịch”.
20 Điều 450 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về mua bán quyền tài sản.
21 Quyền tài sản như quyền đòi nợ được trị giá bằng tiền, xác lập và chuyển giao quyền sở hữu theo Điều 221,
117 Bộ luật Dân sự năm 2015 về căn cứ xác lập quyền sở hữu và điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự;
Điều 365, 450 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về chuyển giao quyền yêu cầu, mua bán quyền tài sản.
Số 08(432) - T4/2021
47
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
theo pháp luật dân sự Việt Nam, nếu coi tiền
mã hóa mang tính đại diện cho quyền “nắm
giữ” tiền mã hóa thì tiền mã hóa có thể được
coi là quyền tài sản.
nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất
đai; tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà,
công trình xây dựng; tài sản khác theo
quy định của pháp luật; và động sản là
những tài sản không phải là bất động sản.
Việc xác định tiền mã hóa là một loại tài
sản như phân tích ở phần trên là cơ sở để
ghi nhận tiền mã hóa là hàng hóa trong
pháp luật TM. Việc ghi nhận tiền mã hóa
là một loại hàng hóa là cơ sở để có thể
xem xét áp dụng các loại thuế và xác định
mức thuế phù hợp.
Cuối cùng, với thực tế là tiền mã hóa
có thể được tạo ra, chiếm hữu, sử dụng và
chuyển nhượng cho người khác, thì việc xác
lập quyền và thực hiện các giao dịch liên
quan đến tiền mã hóa cũng có thể làm phát
sinh các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm
pháp lý cho các chủ thể tham gia giao dịch
theo quy định của pháp luật dân sự Việt
Nam22. Hay nói cách khác, theo pháp luật
dân sự Việt Nam, tuy chưa được công nhận
là một loại tài sản nhưng tiền mã hóa có thể
trở thành khách thể của quyền dân sự23. Bởi
vậy, tiền mã hóa nên được coi là tài sản -
tài sản “đặc biệt” phi truyền thống24 hoặc
quyền tài sản - và cần cho phép giao dịch có
kiểm soát đối với tài sản này, miễn là tài sản
đặc biệt này được cộng đồng hay hệ sinh
thái chấp nhận sử dụng, trao đổi.
Dưới góc độ là dịch vụ, Luật TM năm
2005 không định nghĩa về dịch vụ, nhưng
khoản 9 Điều 3 quy định, cung ứng dịch
vụ là hoạt động thương mại, theo đó một
bên có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một
bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng
dịch vụ (khách hàng) có nghĩa vụ thanh
toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng
dịch vụ theo thỏa thuận. Điều 513 và Điều
514 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng
dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo
đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công
việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng
dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung
ứng dịch vụ” và đối tượng của hợp đồng
dịch vụ là “công việc có thể thực hiện
được, không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội”. Do đó, dịch vụ
được hiểu là một dạng “công việc” mà một
bên cung ứng cho bên kia. Đối chiếu với
các quy định này thì tiền mã hóa chưa rõ
ràng là dịch vụ.
2.2. Dưới góc độ là hàng hóa, dịch vụ
Dưới góc độ là hàng hóa, theo quy định
của Luật Thương mại (TM) năm 2005, khi
tiền mã hóa (không phải là phương tiện
thanh toán) là khách thể của quyền dân
sự, được giao dịch thì có thể được xem
là hàng hóa. Hàng hóa đưa vào lưu thông
giao dịch trước hết cần được ghi nhận là
một loại tài sản (động sản hoặc bất động
sản)25. Theo quy định của Điều 107 BLDS
năm 2015, bất động sản bao gồm: đất đai;
22 Điều 221, 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 về căn cứ xác lập quyền sở hữu và điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự.
23 Điều 8 Bộ luật Dân sự năm 2015.
24 Bộ Tư pháp, Báo cáo số 255/BC-BTP ngày 29/10/2018 về việc rà soát, đánh giá toàn diện thực trạng pháp
luật, thực tiễn về tài sản ảo, tiền ảo ở Việt Nam và quốc tế; nhận diện, đề xuất các định hướng hoàn thiện, Hà
Nội, 2018. Xem thêm: Phan Chí Hiếu, Nguyễn Thanh Tú (chủ biên), Một số vấn đề pháp lý về tài sản mã hóa,
tiền mã hóa, tlđd, tr. 244.
25 Khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, hàng hóa bao gồm: (i) tất cả các loại động sản, kể cả động sản
hình thành trong tương lai; và (ii) những vật gắn liền với đất đai (bất động sản).
48
Số 08(432) - T4/2021
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
2.3. Dưới góc độ phương tiện thanh
toán, ngoại hối
ngân hàng vào tài khoản đảm bảo thanh
toán của tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện
tử theo tỷ lệ 1:1. Tiền trên ví điện tử thực
chất là tiền điện tử (không phải là tài sản
mã hóa, tiền mã hóa hay tiền ảo) và có thể
được sử dụng để thanh toán27. Đồng thời,
khoản 7 Điều 4 Nghị định số 101/2012/
NĐ-CP cũng quy định: “Phương tiện thanh
toán không hợp pháp là các phương tiện
thanh toán không thuộc quy định tại khoản
6 Điều này”. Từ cuối năm 2014 đến nay,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã nhiều
lần khẳng định tiền ảo như Bitcoin (tiền
mã hóa) không phải là phương tiện thanh
toán hợp pháp tại Việt Nam và việc phát
hành, cung ứng, sử dụng Bitcoin và các
loại tiền ảo tương tư khác làm phương
tiện thanh toán là hành vi bị cấm tại
Việt Nam28.
Dưới góc độ phương tiện thanh toán,
tiền giấy, tiền kim loại do Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam phát hành là phương tiện
thanh toán hợp pháp trên lãnh thổ Việt
Nam26. Tuy nhiên, ngoài tiền giấy và tiền
kim loại do Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam phát hành còn có các phương tiện
thanh toán khác được sử dụng. Khoản 6
Điều 4 Nghị định số 101/2012/NĐ-CP quy
định phương tiện thanh toán không dùng
tiền mặt sử dụng trong giao dịch thanh
toán bao gồm: séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi,
nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng và
các phương tiện thanh toán khác theo quy
định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
như dịch vụ ví điện tử. Theo khoản 8 Điều
4 Nghị định số 101/2012/NĐ-CP, dịch vụ
ví điện tử là dịch vụ cung cấp cho khách
hàng một tài khoản điện tử định danh do
các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian
thanh toán tạo lập trên vật mang tin (như
chip điện tử, sim điện thoại di động, máy
tính...), cho phép lưu giữ một giá trị tiền
tệ được đảm bảo bằng giá trị tiền gửi
tương đương với số tiền được chuyển từ
tài khoản thanh toán của khách hàng tại
Như vậy, theo pháp luật Việt Nam hiện
nay, tiền mã hóa không phải là phương
tiện thanh toán. Việc sử dụng tiền mã
hóa làm phương tiện thanh toán là hành
vi vi phạm pháp luật, có thể bị xử lý
hành chính29.
Dưới góc độ ngoại hối, căn cứ điểm a
khoản 2 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam năm 2010 và điểm a khoản 1
26 Khoản 2 Điều 17 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010.
27 Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng
dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán (đã được sửa đối, bổ sung bởi Thông tư số 20/2016/TT-NHNN ngày
30/6/2016 và Thông tư số 30/2016/TT-NHNN ngày 14/10/2016).
28 Thông cáo báo chí ngày 27/02/2014, ngày 11/12/2014, ngày 28/10/2017 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Xem https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/sm/tcbc/ttvhdnhtt/ttvhdnhtt_chitiet?leftWidth=20%
25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=CNTHWEBAP0116211755883&right
Width=0%25¢erWidth=80%25&_afrLoop=17388302872705297#%40%3F_afrLoop%3D1738830
2872705297%26centerWidth%3D80%2525%26dDocName%3 DCNTHWEBAP 0116211755883% 26left
Width%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_
adf.ctrl-state%3Dfjjn1c1kr_4, truy cập ngày 11/3/2021.
29 Điểm b khoản 9, điểm d khoản 6 Điều 27 Nghị định số 96/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng, chủ thể phát hành, cung ứng, sử dụng các
phương tiện thanh toán không hợp pháp sẽ bị xử phạt từ 150 đến 200 triệu đồng. Ngoài ra, chủ thể này còn có
thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung như tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm và bị buộc nộp vào ngân
sách nhà nước số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.
Số 08(432) - T4/2021
49
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
3. Kết luận và khuyến nghị
Điều 4 Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005 (đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2013), ngoại
hối bao gồm: “a) Đồng tiền của quốc gia
khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và
đồng tiền chung khác được sử dụng trong
thanh toán quốc tế và khu vực (sau đây
gọi là ngoại tệ); b) Phương tiện thanh
toán bằng ngoại tệ gồm séc, thẻ thanh
toán, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ
và các phương tiện thanh toán khác; c)
Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ gồm
trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty,
kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có
giá khác; d) Vàng thuộc Dự trữ ngoại hối
nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài
của người cư trú; vàng dưới dạng khối,
thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang
vào và mang ra khỏi lãnh thổ Việt Nam;
và đ) Đồng tiền của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp
chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ
Việt Nam hoặc được sử dụng trong thanh
toán quốc tế”.
Những phân tích trên đây cho thấy, tiền
mã hóa là một tài sản mới, phi truyền thống.
Mặc dù một số cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đã có các cảnh báo, khuyến nghị các
rủi ro, ảnh hưởng tiêu cực của các loại tiền
ảo; thậm chí chỉ đạo áp dụng biện pháp tăng
cường kiểm soát các giao dịch, hoạt động
liên quan đến tiền ảo và khẳng định không
chấp nhận tài sản mã hóa, tiền mã hóa là
phương tiện thanh toán, song về cơ bản,
Việt Nam đang đi theo xu hướng của nhiều
quốc gia trên thế giới là chưa quản lý loại
tài sản mới này30.
Trong khi đó, tiền mã hóa đang có sức
ảnh hưởng lớn khi chiếm 4% giá trị vốn hóa
thị trường và 1% GDP khu vực đồng Euro31
và có đến khoảng 80% giao dịch tiền kỹ
thuật số xuất hiện từ các nước châu Á. Việt
Nam là một trong 5 quốc gia hàng đầu truy
cập các trang web và nền tảng tiền kỹ thuật
số32. Thêm vào đó, khung pháp lý trong giai
đoạn tới cần đáp ứng được việc hạn chế tác
động tiêu cực của các đối tượng mới và tạo
môi trường thuận lợi cho việc khuyến khích
ứng dụng, sáng tạo, đổi mới. Bởi vậy, tác
giả cho rằng, Việt Nam cần luật hóa và xác
định tiền mã hóa là tài sản đặc biệt; đồng
thời, xây dựng khung pháp lý quản lý giao
dịch liên quan đến tiền mã hóa nhằm bảo vệ
quyền lợi nhà đầu tư, người tiêu dùng. Bên
cạnh đó, Nhà nước cần tập trung phát triển
cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin cũng như
xây dựng, hoàn thiện nền tảng số hóa tại
Như vậy, tiền mã hóa không phải là
ngoại hối, cụ thể hơn là ngoại tệ. Tuy
nhiên, theo pháp luật Việt Nam, với
trường hợp một quốc gia phát hành và
xác định tiền mã hóa là tiền pháp định của
quốc gia đó thì tiền mã hóa là ngoại tệ. Và
các giao dịch liên quan đến tiền mã hóa
đó trên lãnh thổ Việt Nam với tư cách là
tiền pháp định của một quốc gia khác sẽ
phải tuân thủ các quy định của Pháp lệnh
Ngoại hối năm 2005 đã được sửa đổi, bổ
sung một số điều năm 2013.
Việt Nam
30
Khoảng 150 quốc gia cơ bản chưa thể hiện quan điểm quản lý tiền mã hóa. Xem: Jan Lansky: “Possible
Approaches to Cryptocurrencies”, Journal of Systems Integration, Vol. 9(1), 2018, p. 22-23.
31
European Central Bank (ECB), Crypto-Assets: Implications for financial stability, monetary policy, and
op223~3ce14e986c.en.pdf, truy cập ngày 10/3/2021.
32
David Abel, Vietnam forms group for digital currency policy research, 17 May 2020. https://coingeek.
com/vietnam-forms-group-for-digital-currency-policy-research/?fbclid=IwAR20bQOAiTodfDa-JdkIt_
j1Kn9CKgv9FWtFswGuXNY7wO33362MtHkum-Y, truy cập ngày 10/3/2021.
50
Số 08(432) - T4/2021
Bạn đang xem tài liệu "Nhận diện tiền mã hóa, pháp luật Việt Nam về tiền mã hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- nhan_dien_tien_ma_hoa_phap_luat_viet_nam_ve_tien_ma_hoa.pdf