Một số vấn đề pháp lý về bồi thường thiệt hại uy tín doanh nghiệp trong kinh doanh thương mại – cách thức xác định thiệt hại thực tế

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI UY TÍN  
DOANH NGHIỆP TRONG KINH DOANH THƢƠNG MẠI –  
CH THỨC XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI THỰC TẾ  
Trần Chí Thành  
Người phản biện:TS. Cao Đình Lành  
Tóm tắt:  
Bồi thƣờng thiệt hại về uy tín của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh  
thƣơng mại đang là một vấn đề dành đƣợc rất nhiều sự quan tâm của xã hội nói chung  
doanh nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, hành lang pháp lý điều chỉnh quan hệ này cũng  
nhƣ việc phƣơng pháp xác định thiệt hại trên thực tế còn gặp khá nhiều bất cập, dẫn  
tới nhiều doanh nghiệp không thể bảo vệ đƣợc lợi ích hợp pháp của mình.  
Bài viết của tác giả tập trung vào 02 vấn đề chính, bao gồm:  
Thứ nhất, trình bày cơ sở pháp lý về quyền yêu cầu bồi thƣờng và mức bồi  
thƣờng đối với thiệt hại về uy tín doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh thƣơng  
mại.  
Thứ hai, cung cấp phƣơng pháp giúp doanh nghiệp xác định thiệt hại uy tín trong  
kinh doanh thƣơng mại.  
Résume: La contribution capitale en valeur de droits de propriété intellectuelle  
sur les marques est laquelle qui qui intéresse les investisseurs en ce moment. En fait, il  
y a eu des cas de la contribution capitale en valeur des droits de la propriété  
industrielle sur les marques telles que Vinashin, Song Da, etc.... La loi vietnamienne a  
également édicté des règlements régissant cet problème, mais il existe encore de  
nombreuses lacunes qui entraînent des difficultés dans la mise en œuvre des sujets, y  
compris le problème de l'évaluation des actifs de la contribution capitale en valeur des  
droits de la propriété industrielle sur les marques. L'évaluation d'un actif de propriété  
intellectuelle en général et l'évaluation de la marque en particulier n'est pas une tâche  
facile, une valeur trop haute ou trop basse ne reflétant pas la valeur de la marque. Et  
bien sûr, la responsabilité du sujet est posée lorsqu'il y a des conséquences juridiques  
découlant de l'évaluation de marque incorrecte de sa valeur. Dans le cadre de cet  
CN, Giảng viên Khoa luật Dân sự  
168  
article, l'auteur s'attache à clarifier la responsabilité du sujet de l'évaluation des droits  
de la propriété industrielle sur les marques dans les activités de la contribution capitale  
dans les entreprises, en soulignant les lacunes de la loi et faire des recommandations.  
Mot clés: Contribution capitale, responsabilité, sujet de l'évaluation, droits de la  
propriété industrielle, marques  
1. Tính cấp thiết  
Những năm gần đây, nền kinh tế của Việt Nam đã có những bƣớc chuyển mình  
mạnh mẽ, đồng bộ và có phần vƣợt trội so với tốc độ tăng trƣởng chung của kinh tế  
toàn cầu.  
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, khi nguồn vốn nƣớc ngoài liên tục đầu tƣ vào  
Việt Nam, vấn đề xây dựng năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển bền vững đang  
đƣợc rất nhiều doanh nghiệp nội địa quan tâm, trong đó yếu tố cốt lõi là chiến lƣợc mở  
rộng quảng bá thƣơng hiệu. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp trên thị trƣờng chỉ  
tập trung vào hoạt động marketing mà chƣa quan tâm nhiều đến việc bảo vệ đối với  
phần thƣơng hiệu đã xây dựng đƣợc. Điều này dẫn tới một rủi ro lớn là doanh nghiệp  
sẽ trở nên rất bị động trong trƣờng hợp phải đối mặt với tổn thất về uy tín, gây ảnh  
hƣởng xấu và có nguy cơ huỷ hoại thƣơng hiệu đã xây dựng từ trƣớc.  
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng này là việc thiếu hành  
lang pháp lý cụ thể về trách nhiệm bồi thƣờng đối với những trƣờng hợp doanh nghiệp  
bị thiệt hại uy tín phát sinh từ các quan hệ kinh doanh thƣơng mại.  
Thực tiễn tuân thủ pháp luật và hoạt động xét xử hiện nay vẫn còn khá nhiều băn  
khoăn về cơ sở pháp lý đối với việc bồi thƣờng thiệt hại uy tín trong kinh doanh  
thƣơng mại. Bên cạnh đó, với tính chất đặc thù của uy tín là một yếu tố vô hình, rất  
khó để các bên liên quan và cơ quan có thẩm quyền thực hiện định lƣợng đƣợc thiệt  
hại thực tế. Điều này dẫn tới thực tế là khi xảy ra tranh chấp, bên yêu cầu bồi thƣờng  
không có căn cứ để đề nghị một mức bồi thƣờng hợp lý, đồng thời Hội đồng xét xử  
cũng thiếu cơ sở để đƣa ra phán quyết khách quan. Hậu quả là hầu hết những tranh  
chấp về kinh doanh thƣơng mại hiện nay đều không đề cập đến vấn đề bồi thƣờng thiệt  
hại uy tín, đây là một sự bất lợi rất lớn cho các chủ thể kinh doanh trên thị trƣờng,  
đồng thời cũng thể hiện sự bất lực của pháp luật cũng nhƣ cơ quan chức năng trong  
việc điều chỉnh quan hệ xã hội và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho công dân.  
169  
Để góp phần đƣa ra phƣơng hƣớng giải quyết thực trạng trên nhằm đáp ứng yêu  
cầu cấp thiết của bối cảnh thị trƣờng phát triển với tốc độ nhanh, việc có những nghiên  
cứu về những vấn đề liên quan đến bồi thƣờng thiệt hại uy tín của doanh nghiệp trong  
thực tế là vô cùng quan trọng.  
Trên cơ sở đó, thông qua bài viết này, tác giả sẽ làm rõ một số vấn đề pháp lý về  
bồi thƣờng thiệt hại uy tín doanh nghiệp trong kinh doanh thƣơng mại, đồng thời cung  
cấp các phƣơng pháp hữu ích giúp xác định thiệt hại trên thực tế.  
2. Quy định của pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại uy tín thƣơng mại  
Pháp lut Việt Nam chƣa có quy định cthvề cách định nghĩa đối vi khái  
nim "uy tín thương mại". Xét trên góc độ kinh tế, có thể định nghĩa một cách khái  
quát nhƣ sau:  
"Uy tín thương mại là sự đánh giá của thị trường đối với thương nhân hoặc  
nhng chthkinh doanh khác".  
Theo đó, uy tín thƣơng mại chính là nim tin, stin tƣởng của khách hàng và đối  
tác đối vi mt chthtrên thị thƣng, chyếu là các doanh nghip.  
Vic to dng uy tín156 trong kinh doanh rt quan trọng, đây chính là một loi tài  
sn vô hình có giá trlớn, đóng vai trò chủ đạo trong việc đƣa doanh nghiệp phát trin  
trong tƣơng lai. Có thể xem uy tín là mt mnh ghép trung tâm trong khả năng cạnh  
tranh ca doanh nghip. Một thƣơng hiệu có uy tín có thbán sn phẩm giá cao hơn  
sn phm cùng loi ca một hãng khác chƣa có uy tín bằng. Đối vi mc sinh li  
trong kinh doanh, không nht thiết phi tùy thuc vào mt hàng nào, công nghnào  
hay svn mà thc tế là tlthun với độ tin cy của ngƣời tiêu thvmt hàng  
hoc dch vđó.  
Pháp lut vbồi thƣờng thit hại đối vi uy tín nói chung nm ri rác ti các lut,  
bluật khác nhau, nhƣng phn ln tp trung trong pháp lut dân sự và thƣơng mại.  
Xét trong lĩnh vực kinh doanh thƣơng mại, căn cứ để phát sinh trách nhim bi  
thƣờng thit hại đối vi uy tín cn phi hi tụ đủ 3 yếu tố theo quy định pháp lut, bao  
gm: (i) có hành vi vi phm hợp đồng; (ii) có thit hi thc tế; (iii) hành vi vi phm  
hợp đồng là nguyên nhân trc tiếp gây ra thit hi157.  
156 Trong phạm vi bài viết này, khi tác giả sử dụng thuật ngữ "uy tín", có nghĩa là tác giả đang đề cập đến uy tín  
thƣơng mại.  
157 Điều 303 Luật Thƣơng mại 2005.  
170  
Tuy nhiên, do gii hn về dung lƣợng bài viết, đồng thời để tp trung khai thác  
trng tâm nhng vấn đề cần làm rõ đối vi vấn đề bồi thƣờng thit hại uy tín thƣơng  
mi theo quy định pháp lut, mc này tác gichỉ đi sâu phân tích 2 vấn đề, bao gm:  
(1) quyn yêu cu bồi thƣờng đối vi thit hi uy tín; (2) mc bồi thƣờng đối vi thit  
hi uy tín.  
2.1. Cơ sở pháp lý vquyn yêu cu bồi thường đi vi thit hi vuy tín  
Pháp luật dân sự đã rất đúng đắn khi ghi nhận tổn thất uy tín là một loại thiệt hại  
đƣợc bồi thƣờng. Theo đó Khoản 1 Điều 361 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 quy định  
rằng "Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh  
thần", tiếp theo tại khoản 3 cùng Điều cũng đã giải thích rõ rằng thiệt hại uy tín là một  
loại tổn thất đƣợc tính bao gồm trong thiệt hại về tinh thần của một chủ thể158. Đồng  
thời, Khoản 3 Điều 419 BLDS 2015 đã ghi nhận về quyền yêu cầu bồi thƣờng của chủ  
thể chịu thiệt hại, theo đó, Tòa án có thể buộc ngƣời có nghĩa vụ bồi thƣờng thiệt hại  
về tinh thần trên cơ sở yêu cầu của ngƣời có quyền159. Từ những quy định trên, chúng  
ta hoàn toàn có đủ cơ sở để khẳng định rằng, thiệt hại về uy tín là một loại thiệt hại  
tinh thần đƣợc bồi thƣờng trên cơ sở yêu cầu của ngƣời bị thiệt hại, căn cứ theo quy  
định của pháp luật dân sự.  
Tiếp cận từ pháp luật thƣơng mại, Luật Thƣơng mại 2005 chƣa có sự quy định cụ  
thể đối với loại thiệt hại về uy tín, mà chỉ có quy định chung về phạm vi thiệt hại đƣợc  
bồi thƣờng, theo đó, tại Khoản 2 Điều 302 ghi nhận rằng "giá trị bồi thường thiệt hại  
bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm  
gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có  
hành vi vi phạm". Nội dung quy định vừa nêu không hề nhắc đến "thiệt hại uy tín" mà  
chỉ đề cập đến "thiệt hại thực tế, trực tiếp". Nhƣ vậy, để xác định giá trị tổn thất về uy  
tín có thuộc phạm vi thiệt hại đƣợc bồi thƣờng hay không, chúng ta cần làm rõ nội  
hàm của thuật ngữ "tổn thất thực tế". Dựa trên mặt ngữ nghĩa, "tổn thất thực tế" đƣợc  
hiểu là những thiệt hại có xảy ra trong thực tiễn và đƣợc xã hội thừa nhận, đồng thời  
tổn thất phát sinh đó phải kèm theo những dấu hiệu khách quan nhất định để giúp xã  
158 Điều 361.3 BLDS 2015: "Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức  
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể"  
159 Điều 419.3 BLDS 2015: "Theo yêu cầu của người có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi  
thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền"  
171  
hội có thể nhận diện đƣợc sự tồn tại của thiệt hại này. Trên cơ sở đó, thiệt hại về uy tín  
hoàn toàn có thể đƣợc xác định là một loại tổn thất thực tế, bởi vì việc doanh nghiệp bị  
giảm sút về uy tín do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra là một hiện tƣợng xảy ra khá  
phổ biến và đƣợc xã hội thừa nhận. Đồng thời việc tổn thất uy tín của doanh nghiệp  
luôn đi kèm những dấu hiệu khách quan có thể nhận biết khác nhƣ suy giảm doanh  
thu, thu hẹp thị phần, khách hàng phản ứng tiêu cực, các hợp đồng hợp tác bị chấm  
dứt, số lƣợng và chất lƣợng nhân sự đi xuống... Bên cạnh đó, pháp luật thƣơng mại  
cũng không hề có bất kỳ quy định nào loại trừ việc bồi thƣờng thiệt hại đối với tổn thất  
uy tín. Do đó, chúng ta có thể hiểu rằng, phạm vi bồi thƣờng thiệt hại theo quy định  
của Luật Thƣơng mại 2005 là bao gồm cả thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần, cụ  
thể trong phạm vi bài viết này tác giả đang xét tới một trong những yếu tố của thiệt hại  
tinh thần là tổn thất uy tín. Theo cách hiểu này, quy định của Luật Thƣơng mại 2005  
sẽ hoàn toàn thống nhất với quy định mang tính điều chỉnh chung của BLDS 2015, tạo  
cơ sở vững chắc cho việc áp dụng pháp luật của cơ quan tài phán trong thực tiễn.  
2.2. Cơ sở pháp lý về mức bồi thường đối với thiệt hại uy tín  
Về cơ sở pháp lý đối với việc xác định mức độ thiệt hại uy tín để làm căn cứ yêu  
cầu bồi thƣờng, pháp luật điều chỉnh chung và pháp luật chuyên ngành đã có sự quy  
định khác nhau.  
Tiếp cận từ pháp luật dân sự, Khoản 3 Điều 419 BLDS 2015 quy định rằng mức  
độ bồi thƣờng đối với tổn thất uy tín sẽ do Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ  
việc. Nhƣ vậy, BLDS 2015 đã đặt trách nhiệm làm rõ mức độ thiệt hại cho Toà án. Sự  
quy định nhƣ vậy là không hợp lý. Bởi vì 2 lý do:  
Một là, làm mất đi tính khách quan của vụ án. Có thể thấy, việc trao cho Toà án  
quyền quyết định một vấn đề liên quan trực tiếp đến đối tƣợng của quan hệ tranh chấp  
giữa các bên mà chỉ cần dựa vào cơ sở ý chí chủ quan của Toà án là một điều rất  
không hợp lý. Việc này sẽ dẫn tới nhiều hệ quả tiêu cực cho chất lƣợng bản án, đáng  
chú ý nhất là 2 vấn đề: (1) Toà án không phải là 1 bên tham gia quan hệ thƣơng mại,  
sẽ không hiểu về các căn cứ xác lập quyền và nghĩa vụ giữa các bên cũng nhƣ không  
nắm rõ diễn biến cụ thể trong vụ án, dẫn đến thiếu những đánh giá khách quan và toàn  
diện về thiệt hại xảy ra; (2) việc trao cho Toà án toàn quyền quyết định dựa vào ý chí  
của mình mà không đề ra thêm bất kỳ một tiêu chí đánh giá nào để làm cơ sở xác định  
172  
mức độ bồi thƣờng thiệt hại uy tín, sẽ dễ dẫn đến tình trạng thẩm phán lợi dụng quyền  
lực đƣợc Nhà nƣớc trao vào mục đích tìm kiếm những khoản lợi ích riêng.  
Hai là, không phù hợp với ý nghĩa thực tiễn của việc bồi thƣờng thiệt hại. Tác  
giả cho rằng, ý nghĩa quan trọng của việc bồi thƣờng thiệt hại là để bù đắp lại những  
tổn thất thực tế cho bên bị vi phạm mà nếu không xảy ra hành vi vi phạm đó thì tổn  
thất sẽ ko phát sinh. Nhƣ vậy, trên tinh thần đó thì việc chứng minh có sự tồn tại của  
thiệt hại và mức độ thiệt hại trong thực tế là rất quan trọng, điều này giúp đảm bảo  
đƣợc lợi ích chính đáng mà bên bị vi phạm đáng đƣợc hƣởng và trừng phạt một cách  
khách quan, đích đáng đối với bên vi phạm tƣơng ứng với hậu quả do mình gây ra.  
Giữ đƣợc nguyên tắc công bằng, bình đẳng mà pháp luật dân sự đề ra. Đồng thời, việc  
quy định nghĩa vụ chứng minh thiệt hại trong thực tế sẽ đòi hỏi các bên tham gia hợp  
đồng phải nâng cao ý thức trách nhiệm của mình trong việc thoả thuận rõ về quyền và  
nghĩa vụ của mình tại thời điểm giao kết hợp đồng, lƣờng trƣớc các rủi ro có thể xảy  
ra, đồng thời có kế hoạch đƣa ra những phƣơng pháp có thể ghi nhận, đo lƣờng đƣợc  
mức độ thiệt hại trong trƣờng hợp rủi ro có phát sinh. Từ đó, nâng cao đƣợc chất  
lƣợng của các giao dịch trong lĩnh thƣơng mại.  
Ngoài ra, ở một khía cạnh nhất định, chúng ta có thể nhận thấy rằng, việc pháp  
luật dân sự trao quyền cho Toà án tự quyết định mức bồi thƣờng thiệt hại dƣờng nhƣ  
đồng nghĩa với sự ghi nhận rằng thiệt hại về uy tín là một loại thiệt hại không có cách  
đo lƣờng và không đƣợc phản ánh vào thực tế, do đó không thể chứng minh mà buộc  
phải phụ thuộc vào ý chí Toà án. Điều này không phù hợp với ý nghĩa của việc bồi  
thƣờng thiệt hại - là sự bù đắp cho tổn thất thực tế phát sinh, bởi vì mặc dù thiệt hại uy  
tín không thể nhận diện bằng mắt thƣờng, nhƣng những tổn thất do sự giảm suy uy tín  
mang lại thì sẽ phản ánh cụ thể vào thực tiễn và có thể sử dụng các phƣơng pháp ứng  
dụng quy tắc tự nhiên để đo lƣờng.  
Tiếp cận từ pháp luật thƣơng mại, theo quy định của Luật Thƣơng mại 2005, một  
trong những căn cứ để phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng là phải có thiệt hại thực tế,  
đồng thời bên yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại phải có nghĩa vụ chứng minh tổn thất, mức  
độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ  
đƣợc hƣởng nếu không có hành vi vi phạm160. Nhƣ vậy, căn cứ theo quy định này, nếu  
160 Điều 304 Luật Thƣơng mại 2005  
173  
bên bị vi phạm không thể chứng minh đƣợc sự tồn tại của thiệt hại cũng nhƣ mức độ  
tổn thất thì Toà án sẽ không chấp nhận yêu cầu đòi bồi thƣờng. Nói cách khác, việc có  
đƣợc bồi thƣờng hay không và mức độ nhƣ thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào nghĩa vụ  
chứng minh của bên yêu cầu. Tác giả cho rằng quy định theo hƣớng này là hợp lý, bởi  
vì phản ánh rõ ý nghĩa thực tiễn của việc bồi thƣờng thiệt hại, đồng thời quy định đặt  
trách nhiệm chứng minh thiệt hại cho chủ thể có yêu cầu bồi thƣờng sẽ tạo đƣợc sự  
thống nhất đối với các quy định của pháp luật tố tụng dân sự161.  
Trên cơ sở đó, tác giả cho rằng nên sửa đổi lại quy định tại Khoản 3 Điều 419  
BLDS 2015 về định mức bồi thƣờng theo hƣớng ghi nhận giá trị bồi thƣờng thiệt hại  
về tinh thần bao gồm tổn thất thực tế mà bên bị vi phạm phải chịu do hậu quả của tác  
động thiệt hại về tinh thần gây ra và khoản thu nhập tƣơng lai mà bên bị vi phạm đáng  
lẽ đƣợc hƣởng nếu không có hành vi vi phạm.  
3. Mt số phƣơng pháp xác định thit hi uy tín trong thc tin kinh doanh  
thƣơng mại  
Cho đến thời điểm hin ti, Việt Nam chƣa có bất kmt tin lnào vbi  
thƣờng thit hi vuy tín do vi phm hợp đồng. Có ththy, cho dù pháp luật quy định  
căn cứ phát sinh trách nhim bồi thƣờng thit hi rt rõ ràng, nhƣng khi áp dụng trong  
thc tế sgp phi rt nhiều khó khăn.  
Nhiều trƣờng hp chính bn thân các bên tham gia vào quan hhợp đồng cũng  
không nhn ra stn ti ca thit hi vuy tín, khi xy ra hành vi vi phm ca mt  
bên thì bên còn lại cũng chỉ dành schú ý cho nhng thit hi vt chất mà quên đi  
nhng ảnh hƣởng đến uy tín thƣơng mại ca mình. Bi vì khác vi thit hi vt cht là  
mt loi thit hi hu hình có thnhn ra bng mắt thƣờng, tn tht uy tín là thit hi  
vô hình và không thcm nhn dựa vào các giác quan con ngƣời, chcó thda trên  
suy lun vquan hnhân quvà nhng phn ng thị trƣờng sau đó để đoán biết.  
Nghiên cu thc tin xét xtranh chấp kinh doanh thƣơng mại hin nay, tác giả  
nhn thy rng, phn ln các vụ án đều không đề cập đến vic bồi thƣờng tn tht về  
uy tín mà chgii hn phm vi bồi thƣờng trong thit hi vt chất. Điều này có thgii  
thích t2 khía cnh, mt là bên bthit hại không đƣa ra yêu cầu bồi thƣờng uy tín,  
161 Điều 91.1 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015: "Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của  
mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn  
cứ và hợp pháp..."  
174  
hai là Hội đồng xét xvà các bên liên quan cũng không thể chứng minh đƣợc stn  
ti ca thit hại uy tín và định lƣợng đƣợc nó.  
Để giải quyết đƣợc bài toán về chứng minh sự tồn tại và xác định mức độ thiệt  
hại uy tín trong thực tế, tác giả đƣa ra phƣơng pháp sau:  
Thứ nhất, xác định những khía cạnh chịu thiệt hại do tác động của việc giảm  
sút uy tín  
Trƣớc hết, chúng ta cần phải có phƣơng pháp nhận diện sự tồn tại của việc uy tín  
bị thiệt hại. Nói cách khác là đƣa ra dấu hiệu để nhận biết khi xảy ra hiện tƣợng uy tín  
doanh nghiệp bị suy giảm. Tác giả đề xuất một giải pháp giúp nhận diện và đánh giá  
uy tín một cách thuần tuý, đó là tạo ra một "chỉ số danh tiếng" có phạm vi rộng và  
đánh giá dựa trên các tiêu chí về chiến lƣợc công ty, sức mạnh tài chính và khả năng  
tồn tại, văn hóa tổ chức, đạo đức và liêm chính, quy trình quản trị và lãnh đạo, sản  
phẩm dịch vụ, liên minh chiến lƣợc và hợp tác kinh doanh và mức độ minh bạch thông  
tin trong báo cáo tài chính thƣờng niên của công ty. Bảng chỉ số danh tiếng này sẽ  
đƣợc xây dựng lại theo từng năm, đối tƣợng khảo sát bao gồm toàn bộ thành viên công  
ty và một bộ phần lớn khách hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ. Ngoài ra, kết quả của  
bảng "chỉ số danh tiếng" này phải đƣợc sự kiểm duyệt của các công ty chuyên về định  
giá thƣơng hiệu thì mới có giá trị pháp lý. Sau khi nhận diện đƣợc sự suy giảm về uy  
tín, chúng ta mới có thể xét đến vấn đề định lƣợng thiệt hại uy tín của doanh nghiệp.  
Có quan điểm cho rằng, thực tiễn không có cách nào có thể đo lƣờng đƣợc chính  
xác mức độ uy tín của một chủ thể trên thị trƣờng. Bởi vì 2 lý do chính: (1) uy tín là  
một yếu tố bao hàm tính chủ quan, uy tín đƣợc xây dựng từ niềm tin của các chủ thể  
khác trong thị trƣờng, những niềm tin này luôn có những đặc điểm và mức độ khác  
nhau do đƣợc tạo nên từ những góc nhìn khác nhau. Cùng 1 chủ thể nhƣng sẽ có uy tín  
cao với nhóm đối tƣợng này nhƣng lại uy tín thấp với nhóm đối tƣợng khác; (2) uy tín  
là vô hình, nó không biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan, dẫn đến không thể sử  
dụng các phƣơng pháp vật lý thông thƣờng để đo lƣờng uy tín.  
Quan điểm vừa nêu đánh giá đúng tính chất vô hình của uy tín, tuy nhiên lại xa  
rời bản chất của việc bồi thƣờng thiệt hại. Vấn đề bồi thƣờng thiệt hại uy tín đƣợc đặt  
ra không phải để bù đắp cho sự giảm sút về niềm tin, bởi vì dù nhận đƣợc giá trị bồi  
thƣờng cao đến bao nhiêu thì uy tín doanh nghiệp cũng không thể ngay lập tức trở lại  
175  
nguyên vẹn nhƣ ban đầu. Thực tế giá trị thiệt hại mà chúng ta cần đo lƣờng và thực  
hiện bồi thƣờng chính là mức độ tổn thất vật chất doanh nghiệp phải chịu do sự giảm  
sút uy tín gây nên, chứ không phải chúng ta cần xác định giá trị nội tại của uy tín. Nói  
cách khác, ý nghĩa của việc bồi thƣờng là bù đắp lại những khoản vật chất tổn thất mà  
bên bị vi phạm phải chịu do ảnh hƣởng của việc mất uy tín gây nên.  
Khác với thiệt hại vật chất là loại thiệt hại đa dạng và nhiều biểu hiện tổn thất  
khác nhau, thiệt hại uy tín trong kinh doanh thƣơng mại chỉ gây ra tác động chủ yếu  
đến một số khía cạnh, do đó chỉ cần xác định đƣợc những mặt chịu thiệt hại do ảnh  
hƣởng của việc giảm sút uy tín thì có thể xây dựng nên phƣơng pháp định lƣợng tổn  
thất. Trên cơ sở đó, tác giả cho rằng có 3 khía cạnh tổn thất chính dƣới tác động của  
việc mất uy tín:  
Một là, tổn thất về lợi nhuận kinh doanh.  
Có quan điểm cho rằng tổn thất về doanh thu mới là giá trị cần xác định để yêu  
cầu bồi thƣờng. Tuy nhiên, bản chất doanh thu không phải là thu nhập của doanh  
nghiệp, giá trị mà bản thân doanh nghiệp nhận đƣợc chính là khoản tiền còn lại sau khi  
trừ đi thuế, phí và những nghĩa vụ nợ khác, hay còn gọi là lợi nhuận.  
Do đó, để đƣa ra yêu cầu bồi thƣờng uy tín thì cần phải xác định đƣợc giá trị lợi  
nhuận bị tổn thất. Đồng thời chứng minh đƣợc việc suy giảm về lợi nhuận này bắt  
nguồn từ nguyên nhân gốc rễ là sự mất niềm tin của khách hàng và đối tác do hành vi  
vi phạm đã tác động xấu đến uy tín doanh nghiệp. Nhƣ vậy, đây là khoản thiệt hại cần  
phải đƣợc bồi thƣờng theo quy định pháp luật.  
Hai là, tổn thất về chi phí tuyển dụng, đào tạo và lưu giữ nhân sự.  
Tổn thất về chi phí”, tác giả định nghĩa tổn thất này chính là sự gia tăng về mặt  
chi phí đối với công tác tuyển dụng, đào tạo và lƣu giữ nhân sự của các doanh nghiệp  
bị giảm sút về uy tín.  
Vấn đề tuyển dụng, đào tạo và lƣu giữ nhân sự trong kinh doanh thƣơng mại  
đóng một vai trò to lớn trong việc phát triển doanh nghiệp.  
Theo một khảo sát của Tạp chí Trách nhiệm Doanh nghiệp ở Mỹ, kết quả cho  
thấy uy tín doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng định hƣớng tìm việc của ngƣời lao  
động, thậm chí bao gồm cả những đối tƣợng thất nghiệp. Thống kê từ khảo sát cho  
thấy rằng: (1) 76% mọi ngƣời không có khả năng chấp nhận lời mời làm việc từ một  
176  
công ty có tiếng xấu, (2) 50% ứng viên cho biết họ sẽ đồng ý làm việc cho 1 doanh  
nghiệp có tiếng xấu nếu họ đƣợc tăng lƣơng đáng kể, (3) những ngƣời lao động lớn  
tuổi, nhiều kinh nghiệm có xu hƣớng từ chối làm việc tại công ty mang tiếng xấu bất  
chấp điều kiện ƣu đãi, (4) 83% nhân viên đang làm việc sẽ rời bỏ công việc hiện tại để  
bắt đầu làm việc cho một công ty có danh tiếng tốt hơn.162  
Từ kết quả khảo sát phía trên cho thấy, các doanh nghiệp nếu bị giảm sút về uy  
tín thì sẽ phải tăng chi phí để nâng cao sức cạnh tranh trong vấn đề tuyển dụng nhân  
sự, đồng thời họ có thể đánh mất những nhân viên tài năng đang làm việc cho công ty  
dẫn đến phải trả mức lƣơng cao hơn so với những công ty cùng ngành để giữ chân ứng  
viên. Ngoài ra, trong những lần tuyển dụng mới, doanh nghiệp phải tiếp tục bỏ ra một  
khoản chi phí đáng kể để đào tạo lại từ ban đầu. Đây chính là những tổn thất mà bên  
có hành vi vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm bồi thƣờng, do đã gây ra sự giảm  
sút uy tín do doanh nghiệp bị vi phạm.  
Ba là, tổn thất về chi phí marketing để xây dựng lại danh tiếng.  
Trong kinh doanh thƣơng mại, danh tiếng của doanh nghiệp sẽ đóng vai trò rất  
quan trọng, đây là tài sản vô hình có giá trị cao mà nhiều chủ thể trên thị trƣờng chƣa  
nhận thức đƣợc. Thực tiễn cho thấy, hiệu quả của việc kinh doanh phụ thuộc rất nhiều  
vào mức độ tin tƣởng và phạm vi phủ sóng của thƣơng hiệu doanh nghiệp.  
Khi một doanh nghiệp bị giảm sút về uy tín, nhất định phải đẩy mạnh hoạt động  
truyền thông, marketing để phục hồi lại uy tín của doanh nghiệp trên thị trƣờng. Tất cả  
những chi phí do việc thực hiện marketing để xây dựng lại thƣơng hiệu doanh nghiệp  
đều phải do bên có hành vi vi phạm chịu trách nhiệm bồi thƣờng.  
Thứ hai, phương pháp cụ thể để định lượng thiệt hại uy tín theo từng khía  
cạnh chịu tác động  
Trên cơ sở những khía cạnh chịu thiệt hại uy tín nhƣ đã phân tích ở trên, tác giả  
đƣa ra một số kiến nghị để định lƣợng thiệt hại cụ thể.  
Một là, xác định thiệt hại đối với lợi nhuận.  
Tác giả lƣu ý rằng, việc xác định thiệt hại đối với lợi nhuận bị giảm sút chỉ mang  
tính chất tƣơng đối, dựa trên lịch sử hoạt động kinh doanh của bản thân doanh nghiệp,  
chứ không thể đƣa ra con số chính xác hoàn toàn.  
162 https://zety.com/blog/hr-statistics, truy cập ngày 02/06/2019.  
177  
Tác giả kiến nghị việc xác định thu nhập giảm sút phải dựa trên 2 cơ sở nền tảng  
sau: (1) giả định rằng tốc độ tăng trƣởng tính theo quý (hoặc theo năm, tuỳ vào tính  
chất của chu kỳ hoạt động kinh doanh là theo quý hay năm) của doanh nghiệp là  
không thay đổi và bằng giá trị trung bình tăng trƣởng 4 của quý gần nhất, (2) lợi nhuận  
của doanh nghiệp chỉ đƣợc tính dựa trên dòng tiền thuần từ kết quả kinh doanh, theo  
dữ liệu của báo cáo lƣu chuyển tiền tiện, không tính các khoản thu nhập bất thƣờng  
hoặc thu nhập từ hoạt động tài chính của công ty.  
Trên cơ sở nền tảng vừa nêu, có thể xác định khoản lợi nhuận giảm sút chính là  
phần chênh lệch thu nhập sau thuế của công ty giữa các lần công bố báo cáo tài chính  
kiểm toán hằng quý hoặc hằng năm. Sau khi loại trừ các khoản thu nhập bất thƣờng và  
dòng tiền từ hoạt động tài chính, với giả định tốc độ tăng trƣởng không đổi, chúng ta  
có thể định lƣợng tƣơng đối đƣợc giá trị lợi nhuận bị mất theo thời gian, tính từ thời  
điểm xảy ra hành vi vi phạm.  
Tác giả nhấn mạnh lại rằng việc định lƣợng chỉ là tƣơng đối, và chỉ có thể sử  
dụng trên một mô hình giả định đơn giản đối với sự phát triển của công ty, bởi vì nếu  
sử dụng mô hình phát triển thực tế cùng với những dữ liệu biến động phức tạp theo  
báo cáo tài chính thì việc xác định thiệt hại uy tín một cách chính xác là điều không  
thể, vì 2 lý do: (1) giá trị bồi thƣờng là lợi nhuận tƣơng lai, là khoản thu nhập không  
chắc chắn và có thể bị tác động bởi ngoại cảnh của thị trƣờng; (2) lợi nhuận của các  
công ty thƣờng có nhiều cách xử trí, trƣờng hợp công ty dùng để tái đầu tƣ thì khoản  
thu nhập này về sau sẽ sinh ra lợi nhuận kép, điều này chúng ta hoàn toàn không thể  
lƣờng đến đƣợc.  
Tác giả kiến nghị phƣơng pháp xác định giá trị bồi thƣờng sẽ là phép tính tổng  
của 2 giá trị bao gồm: (1) khoản bù lỗ trong thời gian doanh nghiệp phát triển quay trở  
lại đạt đƣợc mốc lợi nhuận ngay trƣớc thời điểm xảy ra hành vi vi phạm, (2) khoản lợi  
nhuận đáng lẽ phải có nếu không xảy ra hành vi vi phạm, tính theo tốc độ tăng trƣởng  
trung bình ứng với thời gian đƣợc đề cập tại ý (1) vừa nêu.  
Ví dụ: giả sử trong một quan hệ nhƣợng quyền thƣơng mại, công ty A (bên  
nhƣợng quyền, kinh doanh bán thức ăn nhanh) ký kết hợp đồng nhƣợng quyền với  
công ty B (bên nhận quyền). Thời điểm cuối quý 4 năm 2017, công ty B có hành vi vi  
phạm hợp đồng về việc sử dụng màu sắc biển báo sai quy định và bán các món ăn chất  
178  
lƣợng thấp không có trong menu gốc, dẫn đến sự đánh giá tiêu cực về uy tín và hành  
vi tẩy chay thƣơng hiệu của khách hàng sau đó, gây ra sự giảm sút lợi nhuận cho bên  
nhƣợng quyền là doanh nghiệp A sở hữu thƣơng hiệu gốc. Theo báo cáo tài chính  
kiểm toán của công ty A vào quý 4 năm 2017 thì lợi nhuận sau thuế của quý này là  
1000 tỷ. Phân tích lịch sử kinh doanh cho thấy tốc độ tăng trƣởng lợi nhuận sau thuế  
theo từng quý là 10%/năm. Đến quý 1 năm 2018, báo cáo tài chính kiểm toán đƣa ra  
kết quả thu nhập sau thuế chỉ còn 800 tỷ, nhƣ vậy tỉ suất lợi nhuận sau thuế bị giảm là  
20%. Với tốc độ tăng trƣởng là 10%/quý thì doanh nghiệp A cần xấp xỉ 2,5 quý nữa để  
quay trở lại thời điểm ban đầu trƣớc khi xảy ra vi phạm, tức là lúc lợi nhuận đang đạt  
đƣợc 1000 tỷ. Nhƣ vậy, doanh nghiệp B cần bồi thƣờng khoản chênh lệch giữa 1000  
tỷ và lợi nhuận thực tế trong 2,5 quý liên tục tiếp theo đó, tổng cộng giá trị bồi thƣờng  
ở khoản này theo tính toán của tác giả khoảng 119,5 tỷ. Đồng thời, trong 2,5 quý đó  
doanh nghiệp A cũng mất đi khoản lợi nhuận tăng trƣởng vốn sẽ đạt đƣợc nếu nhƣ  
không có hành vi vi phạm của B, khoản lợi nhuận tăng trƣởng dự kiến này theo tính  
toán sẽ xấp xỉ bằng 270,5 tỷ. Do đó, công ty A cần phải nhận đƣợc bồi thƣờng với giá  
trị tổng cộng là 390 tỷ đồng.  
Hai là, xác định giá trị tổn thất về chi phí tuyển dụng, đào tạo, lưu giữ nhân sự  
và chi phí marketing.  
Đối với giá trị này thì không thể dự đoán trƣớc, bởi vì nó phụ thuộc vào tính  
cách, hoàn cảnh, nhu cầu của những nhân sự trong mỗi công ty và phụ thuộc vào mức  
độ phản ứng của thị trƣờng lao động cũng nhƣ khách hàng hoặc đối tác đối với việc  
suy giảm uy tín doanh nghiệp.  
Tác giả kiến nghị việc bồi thƣờng cho tổn thất này sẽ thực hiện trả sau, thời hạn  
dài và chi trả vào cuối mỗi quý tài chính. Giá trị bồi thƣờng sẽ bằng khoản chênh lệch  
giữa chi phí thực tế theo báo cáo tài chính quý gần nhất và chi phí cùng loại đƣợc hạch  
toán vào báo cáo tài chính của quý liền trƣớc thời điểm xảy ra hành vi vi phạm. Thời  
gian bồi thƣờng là từ thời điểm xảy ra hành vi vi phạm cho đến thời điểm uy tín quay  
trở lại mốc ban đầu trong thang đo danh tiếng hoặc thời điểm công ty định giá thƣơng  
hiệu xác định rằng giá trị thƣơng hiệu đã đƣợc khôi phục, tuỳ vào thời điểm nào đến  
trƣớc. Trƣờng hợp công ty không sử dụng thang đo danh tiếng thì thời gian bồi thƣờng  
179  
có thể tính bằng với thời gian đƣợc ghi nhận tại trƣờng hợp bồi thƣờng lợi nhuận sụt  
giảm đã phân tích ở trên.  
4. Lời kết  
Trong nền kinh tế thị trƣờng phát triển định hƣớng xã hội chủ nghĩa của Việt  
Nam hiện nay, việc tạo dựng thƣơng hiệu mạnh và nâng cao sức cạnh tranh độc lập là  
một vấn đề vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp, vừa đảm bảo tạo lập vị trí bền  
vững trong thị trƣờng nội địa, vừa đứng vững trƣớc sự xâm nhập của các hàng hoá,  
dịch vụ quốc tế.  
Nghiên cứu về bồi thƣờng thiệt hại đối với uy tín doanh nghiệp trong hoạt động  
kinh doanh thƣơng mại có ý nghĩa quan trọng, giúp hoàn thiện hành lang pháp lý và  
cung cấp thêm công cụ thực tiễn để doanh nghiệp có thể tự bảo vệ mình trong trƣờng  
hợp uy tín thƣơng mại bị xâm phạm. Đồng thời, giúp thay đổi nhận thức chung của các  
chủ thể trên thị trƣờng, hiểu rõ rằng vai trò của uy tín kinh doanh cũng không kém  
phần quan trọng so với những tài sản vật chất khác, đặc biệt là trong xu hƣớng phát  
triển của tài sản trí tuệ nói chung và công nghệ thông tin nói riêng trên thế giới hiện  
nay.  
Qua bài viết này, tác giả đã làm rõ thêm về cơ sở pháp lý đối với quyền yêu cầu  
bồi thƣờng cũng nhƣ mức bồi thƣờng đối với thiệt hại uy tín của doanh nghiệp trong  
kinh doanh thƣơng mại. Bên cạnh đó, cung cấp thêm một số phƣơng pháp để doanh  
nghiệp và các cơ quan chức năng có thể định lƣợng đƣợc thiệt hại uy tín trên thực tế.  
Mong rằng đây sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho các doanh nghiệp trên thị  
trƣờng cũng nhƣ cơ quan Nhà nƣớc trong việc áp dụng pháp luật về bồi thƣờng thiệt  
hại uy tín thƣơng mại.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Hiến pháp 2013  
2. Bộ luật Dân sự 2015  
3. Luật Thƣơng mại 2005  
4. https://zety.com/blog/hr-statistics, truy cập ngày 02/06/2019.  
180  
pdf 13 trang Thùy Anh 6720
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề pháp lý về bồi thường thiệt hại uy tín doanh nghiệp trong kinh doanh thương mại – cách thức xác định thiệt hại thực tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_phap_ly_ve_boi_thuong_thiet_hai_uy_tin_doanh_n.pdf