Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TS. Ngô Văn Hà
Tập bài giảng
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(Tài liệu phục vụ dạy và học khối không chuyên
ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh)
(Lưu hành nội bộ)
ĐÀ NẴNG – 2013
1
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH
MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
a. Khái niệm “Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam”
- Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, vấn đề cơ bản là đề ra đường lối cách mạng và hoạch định đường
lối.
- Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là hệ thống quan điểm, chủ trương, chính
sách về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của cách mạng Việt Nam.
- Đường lối cách mạng của Đảng là toàn diện và phong phú. Có đường lối chính trị chung, xuyên
suốt cả quá trình cách mạng. Có đường lối cho từng thời kỳ lịch sử. Ngoài ra còn có đường lối cách mạng
vạch ra cho từng lĩnh vực hoạt động.
- Đường lối cách mạng của Đảng chỉ có giá trị chỉ đạo thực tiễn khi phản ánh đúng quy luật vận
động khách quan. Vì vậy, Đảng phải thường xuyên chủ động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để kịp
thời điều chỉnh, phát triển đường lối.
- Để tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, trước hết phải xây dựng đường lối cách mạng đúng
đắn. Nghĩa là đường lối của Đảng phải được hoạch định trên cơ sở quan điểm lý luận khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tri thức tiên tiến của nhân loại; phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của thực tiễn
cách mạng Việt Nam và xu thế quốc tế; đường lối đúng đắn sẽ đi vào đời sống, thức tỉnh, động viên và tập hợp
quần chúng nhân dân tham gia tự giác phong trào cách mạng.
b. Đối tượng nghiên cứu môn học
- Đối tượng nghiên cứu cơ bản của môn học là hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam - từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
- Môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam có mối quan hệ mật thiết với môn
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và môn Tư tưởng Hồ Chí Minh. Nắm vững hai môn
học này sẽ trang bị cho sinh viên tri thức phương pháp luận khoa học để nhận thức và thể hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng một cách sâu sắc và toàn diện hơn.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, làm rõ sự ra đời tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hai là, làm rõ quá trình hình thành, bổ sung và phát triển đường lối cách mạng của Đảng. Đặc biệt làm rõ
đường lối của Đảng trên một số lĩnh vực trong thời kỳ đổi mới.
Ba là, làm rõ kết quả thực hiện đường lối cách mạng của Đảng trên một số lĩnh vực cơ bản trong tiến
trình cách mạng Việt Nam.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP MÔN HỌC
1. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
a. Cơ sở phương pháp luận
Nghiên cứu môn đường lối cách mạng của Đảng phải dựa trên thế giới quan, phương pháp luận
khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, các quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và các quan điểm của Đảng.
b. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc là hết sức quan trọng trong việc nghiên cứu môn Đường
lối cách mạng của Đảng, ngoài ra còn dùng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh…
2. Ý nghĩa của việc học tập môn học
- Trang bị cho sinh viên những hiểu biết cơ bản về sự ra đời của Đảng, về đường lối của Đảng
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là đường lối của Đảng
trong thời kỳ đổi mới
- Bồi dưỡng cho sinh viên niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, định hướng phấn đấu theo mục tiêu,
lý tưởng và đường lối của Đảng; nâng cao ý thức trách nhiệm công dân trước những nhiệm vụ trọng đại
của đất nước.
- Sinh viên có cơ sở vận dụng kiến thức chuyên ngành để chủ động, tích cực giải quyết những vấn
đề kinh tế, chính trị, xã hội … theo đường lối, chính sách của Đảng.
2
CHƯƠNG I
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU
TIÊN CỦA ĐẢNG
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
a. Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó
- Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh
tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa). Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đặt
ra yêu cầu bức thiết về thị trường, dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc.
- Mẫu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt, phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
b. Ảnh hưởng của nghĩa Mác - Lênin
- Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch
sử của mình, giai cấp công nhân phải lập ra đảng cộng sản. Sự ra đời của đảng cộng sản là yêu cầu khách
quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống áp bức, bóc lột. Chủ nghĩa Mác - Lênin “đã
lay chuyển, lôi cuốn quần chúng nhân dân và cả những phần tử ưu tú, tích cực ở các nước thuộc địa vào
phong trào cộng sản”.
- Kể từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam, phong trào yêu nước và phong
trào công nhân phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời của các tổ
chức cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư
tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
c. Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng sản
- Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Đối với nước Nga, đó là cuộc cách mạng vô
sản, nhưng đối với các dân tộc thuộc địa trong đế quốc Nga thì đó còn là một cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, bởi vì trước cách mạng "nước Nga là nhà tù của các dân tộc".
- Cuộc cách mạng này cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các
nước, và là một trong những động lực thúc đẩy sự ra đời nhiều đảng cộng sản ở các nước trên thế giới.
- Đối với các dân tộc thuộc địa, Cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng trong việc giải
phóng các dân tộc bị áp bức, đã "mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải
phóng dân tộc".
- Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) được thành lập (3/1919) đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế.
- Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác -
Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh vai trò của tổ chức này đối với
cách mạng Việt Nam “ An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc”1.
2. Hoàn cảnh trong nước
a. Xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp
Sau khi đánh chiếm được nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành
những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ
hàng hóa.
Về kinh tế:
- Thực dân Pháp, tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền;
- Đầu tư cơ sở hạ tầng để khai thác tài nguyên;
- Chúng kết hợp hai phương thức bóc lột tư bản và phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính
vì thế, nước Việt Nam không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách bình thường được, nền kinh tế
Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp.
Về chính trị:
- Thực Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ mọi quyền lực của nhà Nguyễn;
- Chia Việt Nam ra thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai
trị riêng;
- Câu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt
Nam.
- Bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu tranh của dân ta trong
biển máu.
Về văn hoá:
3
- Thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, vong bản, khuyến khích các hoạt
động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục.
- Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán.
- Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào
Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề thống trị.
Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam.
Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình xã hội Việt
Nam. Sự phân hoá giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc hơn. Ngoài hai giai cấp cũ là nông dân và địa chủ
hình thành thêm giai cấp công nhân, giai cấp tư sản và tầng lớp tiểu tư sản.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước, ở
mức độ khác nhau, đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Xã hội Việt Nam tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản.
Một là, giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và bọn tay sai. Mâu thuẫn này nổi lên
thành mâu thuẫn chủ yếu.
Hai là, giữa nhân dân lao động, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Thực tiễn lịch
sử Việt Nam đặt ra yêu cầu là phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do
cho nhân dân và xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho
nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
b. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
- Những phong trào mang ý thức hệ phong kiến tiêu biểu diễn ra trong thời kỳ này là:
+ Phong trào Cần Vương (1885- 1896).
+ Cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang) (1884- 1913).
Sự thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến
không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước, giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt
Nam.
- Phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng
dân chủ tư sản.
+ Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu, với chủ trương dùng biện pháp bạo động để
đánh đuổi thực dân Pháp khôi phục nền độc lập cho dân tộc. Ông đi từ lập trường quân chủ lập hiến đến
lập trường dân chủ tư sản, nhưng cuối cùng bị thất bại.
+ Đại biểu cho xu thế cải cách là Phan Châu trinh, với chủ trương vận động, cải cách văn hoá, xã
hội; động viên lòng yêu nước trong nhân dân, đả kích bọn vua quan phong kiến thối nát, đề xướng tư
tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền. Hoạt động
cách mạng của Phan Châu Trinh đã góp phần thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam.
> Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, cũng như các sĩ
phu cấp tiến lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX không thể tìm được một phương hướng giải
quyết chính xác cho cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù
dập tắt.
Thời kỳ này ở Việt Nam còn có phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1907), Phong trào “tẩy chay
Khách trú” (1919), Phong trào chống độc quyền xuất nhập khẩu ở cảng Sài Gòn (1923).
- Từ phong trào đấu tranh, các tổ chức đảng phái ra đời: Đảng lập hiến (năm 1923); Đảng thanh
niên (tháng 3-1926); Đảng thanh niên cao vọng (năm 1926); Việt Nam nghĩa đoàn (năm 1925), sau nhiều
lần đổi tên, tháng 7 năm 1928 lấy tên là Tân Việt Cách mạng Đảng; Việt Nam Quốc dân Đảng (12-1927).
Các Đảng phái chính trị tư sản và tiểu tư sản trên đây đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước chống
Pháp, đặc biệt là Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng.
+ Tân Việt Cách mạng Đảng ra đời và hoạt động trong bối cảnh Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên phát triển mạnh. Một số đảng viên của Tân Việt chuyển sang Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Số đảng viên tiên tiến còn lại trong Tân Việt tích cực để tiến tới thành lập một chính Đảng theo chủ nghĩa
Mác-Lênin.
+ Việt Nam Quốc dân Đảng là một đảng chính trị theo xu hướng dân chủ tư sản. Mục tiêu hoạt
động là: Trước làm dân tộc cách mạng, sau làm thế giới cách mạng. Đánh đuổi thực dân Pháp, đánh đổ
ngôi vua, thiết lập nền dân quyền. Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam quốc dân Đảng bắt đầu từ đêm ngày 9-
2-1930 ở Yên Bái, Phú Thọ, Hải Dương, Thái Bình…trong tình thế hoàn toàn bị động nên đã bị thực dân
Pháp dập tắt.
Nhận xét:
- Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đã diễn ra liên tục, sôi
nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức
dân tộc, tinh thần chống đế quốc của giai cấp tư sản Việt Nam. Nguyên nhân thất bại của phong trào yêu
4
nước theo khuynh hướng tư sản là sự hạn chế về giai cấp, về đường lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu
chặt chẽ.. Sự thất bại đó cũng phản ánh địa vị kinh tế và chính trị yếu kém của giai cấp tư sản Việt Nam
và sự bất lực của họ trước yêu cầu giải phóng dân tộc.
- Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã góp phần
cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi đắp thêm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc
biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là lớp thanh niên trí thức có khuynh hướng dân chủ tư
sản chọn lựa một con đường mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại và
nhu cầu mới của nhân dân Việt Nam.
- Phong trào yêu nước trở thành một trong ba nhân tố (nguồn gốc) dẫn đến sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
c. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự phát triển của phong trào yêu nước theo khuynh hướng
vô sản
- Năm 1911, Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc) ra đi tìm đường cứu nước. Người đã tìm hiểu
kỹ các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và
quyền con người của cách mạng tư sản Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789). Song Người cũng nhận ra
rằng con đường cách mạng tư sản không thể đem lại độc lập và hạnh phúc thực sự cho nhân dân các nước
nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.
- Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
- Tháng 7 - 1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Người tìm thấy trong Luận cương của Lênin lời giải đáp về con
đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12 - 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia
nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt
trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người - từ người yêu nước trở thành người cộng sản, tìm thấy
con đường cứu nước đúng đắn: giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
- Bằng thiên tài trí tuệ và hoạt động cách mạng của mình, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời đáp ứng
nhu cầu bức thiết của lịch sử. Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng
có xu hướng tư sản đương thời, Nguyễn ái Quốc đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác-
Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản.
- Cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào Cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạngViệt Nam và chuẩn bị điều
kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam thông qua những bài đăng trên các báo Người cùng
khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và xuất bản một số tác phẩm, đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân
Pháp (năm 1925).
+ Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc đã đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 6-1925, Người thành
lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên_ tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Từ năm 1925 đến năm 1927, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã mở các lớp huấn luyện
chính trị cho cán bộ cách mạng Việt Nam. Năm 1928 Hội thực hiện chủ trương “vô sản hoá”, đưa hội
viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp công nhân; để truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận giải phóng dân tộc vào phong trào cách mạng Việt Nam.
+ Nguyễn Ái Quốc còn lựa chọn những thanh niên Việt Nam ưu tú gửi đi học tại các trường Đại
học Phương Đông (Liên Xô) và trường Lục quân Hàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách
mạng Việt Nam; tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong nhằm truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
+ Năm 1927, Bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm Đường
cách mệnh (tập hợp tất cả các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở các lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên). Nội dung cơ bản Tác phẩm như sau:
Đường cách mệnh chỉ rõ, tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc
mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết với nhau; cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng là việc chung của cả dân chúng. Nhưng cái cốt của nó là công – nông.
Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một Đảng lãnh đạo.
Về vấn đề đoàn kết quốc tế: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới.
Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”.
Về phương pháp cách mạng, tiến hành khởi nghĩa với sự nổi dậy của toàn dân…
5
> Tác phẩm Đường cách mệnh đã đề cập những vấn đề cơ bản của một cương lĩnh chính trị, chuẩn
bị về tư tưỏng chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đường cách mệnh có giá trị lý luận
và thực tiễn to lớn đối với cách mạng Việt Nam.
Sự phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
- Trong những năm 1919 – 1925, trong trào công nhân diễn ra dưới các hình thức đình công, bãi
công, tiêu biểu như các cuộc bãi công của công nhân Ba Son (Sài Gòn) do Tôn Đức Thắng tổ chức (1925)
và cuộc bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định nổ ra ngày 30 – 04 – 1925 đòi chủ tư bản phải
tăng lương, bỏ đánh đập...
- Từ năm 1928 đến năm 1929, có khoảng 40 cuộc đấu tranh của công nhân diễn ra trong toàn quốc.
- Các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam trong những năm 1926-1929 mang tính chất chính
trị rõ rệt. Mỗi cuộc đấu tranh đã có sự liên kết giữa các nhà máy, các ngành và các địa phương. Phong
trào công nhân có sức lôi cuốn phong trào dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
- Trước sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước, cuối tháng 3-1929, ở Hà
Nội một số một số hội viên tiên tiến của tổ chức Thanh niên ở Bắc Kỳ đã lập ra Chi bộ Cộng sản đầu tiên
ở Việt Nam, do Trần Văn Cung làm Bí thư Chi bộ.
- Tại Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (5-1929) đã xảy ra bất đồng
giữa các đoàn đại biểu về vấn đề thành lập Đảng cộng sản. Trong bối cảnh đó các tổ chức cộng sản ở Việt
Nam ra đời.
+ Đông Dương Cộng sản Đảng: ngày 17-7-1929, tại Hà Nội, đại biểu các tổ chức cộng sản ở miền
Bắc họp và đã quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng.
+ An Nam Cộng sản Đảng: Mùa thu năm 1929, các đồng chí trong Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên hoạt động ở Trung Quốc và Nam Kỳ đã thành lập An Nam Cộng sản đảng.
+ Đông Dương cộng sản Liên đoàn: Những đảng viên tiên tiến của Tân Việt đã thành lập Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn (9/1929).
- Mặc dù đều gương cao ngọn cờ chống đế quốc, phong kiến, xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Việt
Nam, nhưng ba tổ chức cộng sản trên đây hoạt động phân tán, chia rẽ đã ảnh hưởng xấu đến phong trào
cách mạng ở Việt Nam lúc này. Vì vậy, việc khắc phục sự chia rẽ, phân tán giữa các tổ chức cộng sản là
yêu cầu khẩn thiết của cách mạng nước ta, là nhiệm vụ cấp bách của tất cả những người cộng sản Việt
Nam.
II). HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
1.Hội nghị thàng lập Đảng
- Ngày 27-10-1929, Quốc tế Cộng sản gửi những người cộng sản Đông Dương tài liệu Về việc
thành lập một Đảng cộng sản ở Đông Dương yêu cầu những người cộng sản Đông Dương phải khắc phục
ngay sự chia rẽ các nhóm cộng sản và thành lập một đảng của giai cấp vô sản.
- Nhận được tin về sự chia rẽ của những người cộng sản ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc đã rời
Xiêm đến Trung Quốc và đã chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc. Thành phần
Hội nghị hợp nhất gồm: 1 đại biểu của Quốc tế cộng sản; 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng; 2
đại biểu An Nam Cộng sản Đảng.
- Hội nghị nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua
văn kiện: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng
và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Hội nghị quyết định phương châm, kế hoạch thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước, quyết
định ra báo, tạp chí của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Ngày 24-02-1930, theo yêu cầu của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, Ban Chấp hành Trung
ương Lâm thời họp và ra nghị quyết chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng
sản Việt Nam.
2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam như: Chính cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Nôi dung cơ bản như sau:
- Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Nhiệm vụ cụ thể của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng là
+ Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt Nam hoàn
toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông.
6
+Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ tài sản lớn của tư bản đế quốc chủ
nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc
chủ nghĩa làm của công, chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp
và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 tiếng.
+ Về văn hoá - xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo
công nông hoá.
- Về lực lượng cách mạng: Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào
hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến, phải liên lạc với tiểu
tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân việt… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Đối với phú
nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới
làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến …) thì phải đánh đổ.
- Về lãnh đạo cách mạng: giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng là đội
tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được dân chúng; trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một
chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con đường thỏa hiệp.
- Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: Cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản
thế giới nhất là giai cấp vô sản Pháp.
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng
tạo, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yuê cầu khách quan của lịch sử, nhuần
nhuyễn quan điểm giai cấp, thấm đượm tinh thần dân tộc.Tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách
mạng ruộng đất để đi tới xã hội cộng sản là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh này.
- Thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam trong gần 80 năm qua đã chứng minh rõ
tính cách mạng và tính khoa học, tính đúng đắn và tiến bộ của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
3. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thể hiện bước phát triển biện chứng quá trình vận động của
cách mạng Việt Nam: sự phát triển từ Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đến ba tổ chức cộng sản, đến
Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm cách mạng Nguyễn Ái
Quốc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác –Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước. Trong quá trình chuẩn bị các điều kiện cho việc thành lập Đảng, Nguyễn Ái
Quốc không chỉ vận dụng sáng tạo mà còn bổ sung, phát triển học thuyết Mác – Lênin về Đảng Cộng sản.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp,
là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác – Lênin đối với
cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh cách mạng đúng
đắn đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng lãnh đạo cách mạng kéo dài mấy chục năm đầu thế kỷ 20. Đó là
bước ngoặc vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ giai cấp vô sản ta đã
trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng.
- Đảng ra đời đã làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế
giới, tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại làm nên những thắng lợi vẻ vang, mở đầu là Cách mạng Tháng Tám năm 1945 lập nên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà.
7
CHƯƠNG II
ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945)
I. CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1939
1. Chủ trương của Đảng trong những năm 1930 - 1935
a. Luận cương chính trị tháng 10 - 1930
Ngày 30-10-1930, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương họp lần thứ nhất tại Hương cảng (Trung
Quốc) do Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã thông qua Luận cương chính trị của Đảng, và quyết định đổi tên
Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị cử ra Ban Chấp hành Trung ương
chính thức doTrần Phú làm Tổng Bí thư.
- Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng được thành lập gồm 6 uỷ viên, trong đó Ban Thường
vụ có: Trần Phú, Ngô Đức Trì, Nguyễn Trọng Nhã, do Trần Phú làm Tổng Bí thư. Hội nghị còn thông
qua các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ…Hội nghị đã thảo luận Dự án
Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Luận cương xác định:
- Mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên là "một bên thì thợ
thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa".
- Về phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương, lúc đầu là một cuộc "cách mạng tư
sản dân quyền", "có tính chất thổ địa và phản đế". "Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm
xã hội cách mạng". Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục "phát triển, bỏ qua thời kỳ
tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa".
- Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải "tranh đấu để đánh đổ các di tích
phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để"
và "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập". Hai nhiệm vụ chiến lược
đó có quan hệ khăng khít với nhau: "có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và
làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc
chủ nghĩa". Luận cương nhấn mạnh: "Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền", là cơ
sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
- Về lực lượng cách mạng, giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính của cách mạng tư sản
dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nông dân là một động lực mạnh của
cách mạng, còn những giai cấp và tầng lớp khác ngoài công nông như tư sản thương nghiệp thì đứng về
phía đế quốc chống cách mạng, còn tư sản công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách
mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc. Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ công nghiệp thì có thái
độ do dự; tiểu tư sản thương gia thì không tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc
gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế quốc trong thời kỳ đầu. Chỉ có các phần tử lao khổ
ở đô thị như những người bán hàng rong, thợ thủ công nhỏ, trí thức thất nghiệp mới đi theo cách mạng mà
thôi.
- Về lãnh đạo cách mạng, điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần
phải có một Đảng cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần
chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, lấy chủ nghĩa
Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông
Dương, và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vô sản
là chủ nghĩa cộng sản.
- Về phương pháp cách mạng, phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường "võ trang bạo
động". Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, "phải tuân theo khuôn phép nhà binh".
- Về quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới: Cách mạng Đông Dương là một bộ
phận của cách mạng vô sản thế giới, phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai
cấp vô sản Pháp, và phải mật thiết liên hệ với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc
địa nhằm mở rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh cách mạng ở Đông Dương .
> Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã vạch ra nhiều vấn đề cơ bản thuộc về chiến lược cách
mạng. Tuy nhiên, do nhận thức giáo điều và máy móc về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp
trong cách mạng thuộc địa, lại hiểu biết không đầy đủ về tình hình đặc điểm của xã hội, giai cấp và dân
tộc ở Đông Dương, đồng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp của khuynh hướng "tả" của Quốc tế Cộng sản và
một số đảng cộng sản trong thời gian đó, nên Ban Chấp hành Trung ương đã không vạch rõ mâu thuẫn
chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam bị nô dịch với đế quốc thực
dân Pháp xâm lược và tay sai của chúng, do đó không nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mà nặng
về đấu tranh giai cấp, về cách mạng ruộng đất, không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai
cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai. Luận cương chưa đánh giá đúng
8
mức vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc, cường điệu mặt
hạn chế của họ, chưa thấy được khả năng phân hoá và lôi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách
mạng giải phóng dân tộc. Từ nhận thức hạn chế như vậy, Ban Chấp hành Trung ương đã không chấp nhận
những quan điểm mới, sáng tạo, độc lập tự chủ của Nguyễn Ái quốc được nêu trong Chính cương vắn tắt
và Sách lược văn do Hội nghị hợp nhất thông qua. Sau này trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là
đến Hội nghị lần thứ VIII của Ban Chấp hành Trung ương (5-1941), Đảng đã khắc phục được những hạn
chế đó và đưa cách mạng đến thành công.
b. Chủ trương khôi phục tổ chức đảng và phong trào cách mạng
- Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động được phong trào cách mạng rộng lớn, mà đỉnh cao là Xôviết
Nghệ Tĩnh.
+ Cao trào cách mạng 1930 – 1931 đã tập hợp được đông đảo quần chúng công – nông, chĩa mũi
nhọn đấu tranh vào bọn đế quốc, phong kiến khắp Bắc – Trung – Nam làm rung chuyển nền thống trị của
chúng.
+ Riêng ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đã xuất hiện chính quyền của nhân dân mô phỏng theo các
Xôviết trong cách mạng Nga, đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho nhân dân.
+ Giữa lúc phong trào cách mạng của quần chúng đang dâng cao, đế quốc Pháp và tay sai đã thẳng
tay đàn áp, khủng bố hòng dập tắt phong trào cách mạng Việt Nam.
- Tuy bị địch khủng bố ác liệt, Đảng ta và quần chúng cách mạng bị tổn thất nặng nề, song thành
quả lớn nhất của phong trào cách mạng 1930-1931 là đã:
+ Khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo và năng lực lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân
thông qua Đảng tiền phong của mình;
+ Đem lại cho nông dân niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng; đem lại cho quần chúng
đông đảo, trước hết là công - nông lòng tin sức lực cách mạng của bản thân mình dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
- Mặc dù bị thực dân Pháp khủng bố tàn bạo, một số tổ chức đảng vẫn được duy trì và bám chắc
quần chúng để hoạt động. Nhiều đảng viên vượt tù đã tích cực tham gia khôi phục đảng và lãnh đạo quần
chúng đấu tranh. Các xứ uỷ Bắc Kỳ, Nam Kỳ, Trung Kỳ được lập lại trong năm 1931 và 1933. Nhiều tỉnh
uỷ, huyện uỷ, chi bộ lần lượt được phục hồi. Ở miền núi phía Bắc, một số tổ chức của Đảng được thành
lập.
- Đầu năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong cùng một số đồng chí chủ chốt
ở trong và ngoài tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng. Tháng 6/1932 Ban lãnh đạo Trung ương
đã công bố Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương:
+ Đòi các quyền tự do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, đi lại trong nước và ra nước ngoài;
+ Bỏ những luận hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả tự do cho tù binh chính trị, bỏ ngay chính
sách đàn áp, giải tán Hội đồng đề hình;
+ Bỏ thuế thân, thuế ngụ cư và các thứ thuế vô lý khác;
+ Bỏ các độc quyền về rượu, thuốc phiện và muối.
+ Chương trình hành động còn đề ra những yêu cầu cụ thể riêng cho từng giai cấp và tầng lớp nhân dân;
vạch rõ phải ra sức tuyên truyền mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng, củng cố và phát triển các đoàn
thể cách mạng.
- Những yêu cầu chính trị trước mắt cùng với những biện pháp tổ chức và đấu tranh do Đảng vạch
ra trong Chương trình hành động năm 1932 phù hợp với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ. Nhờ vậy, phong
trào cách mạng của quần chúng và hệ thống tổ chức của Đảng đã nhanh chóng được khôi phục.
- Tháng 3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao (Trung Quốc). Đại hội đề ra
ba nhiệm vụ trước mắt là:1. Củng cố và phát triển Đảng. 2.Đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần
chúng.3.Mở rộng tuyên truyền chống đê quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô, ủng hộ cách mạng
Trung quốc… Đại hội bầu ra BCHTƯ Đảng gồm 13 ủy viên do đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng Bí
thư.
- Thành công của Đại hội đã khẳng định trên thực tế phong trào cách mạng và hệ thống tổ chức
Đảng đã được khôi phục, mở ra một giai đoạn phát triển mới của cách mạng Đông Dương.
2. Chủ trương của Đảng trong những năm 1936-1939
a. Hoàn cảnh lịch sử
Tình hình thế giới
- Cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1929-1933 ở các nước thuộc hệ thống tư bản chủ
nghĩa đã làm cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt.
- Chủ nghĩa phátxít đã xuất hiện và thắng thế ở một số nơi. Tập đoàn phátxít cầm quyền ở Đức, Ý
và Nhật đã liên kết với nhau thành khối “trục”, ráo riết chuẩn bị chiến tranh để chia lại thị trường thế giới
9
và thực hiện mưu đồ tiêu diệt Liên Xô. Nguy cơ chủ nghĩa phátxít và chiến tranh thế giới đe dọa nghiêm
trọng nền hoà bình và an ninh quốc tế.
- Trước tình hình đó, Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản họp tại Matxcơva (tháng 7-1935)
dưới sự chủ trì của G. Đimitơrốp. Đại hội xác định:
+ Kẻ thù nguy hiểm trước mắt của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới là chủ nghĩa
phátxít. Đại hội vạch ra nhiệm vụ trước mắt là đấu tranh chống chủ nghĩa phátxít, chống chiến tranh, bảo vệ
dân chủ và hoà bình.
+ Để thực hiện nhiệm vụ cấp bách đó, các đảng cộng sản và nhân dân các nước trên thế giới phải lập
mặt trận nhân dân rộng rãi chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hòa bình và cải thiện
đời sống.
+ Đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa vấn đề lập mặt trận thống nhất chống đế quốc có tầm
quan trọng đặc biệt.
Tình hình trong nước
- Bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương vẫn ra sức vơ vét, bóc lột, bóp nghẹt mọi quyền tự do,
dân chủ và thi hành chính sách khủng bố, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ta.
- Các giai cấp và tầng lớp tuy có quyền lợi khác nhau, nhưng đều căm thù thực dân, có nguyện
vọng chung trước mắt là đấu tranh đòi quyền được sống, quyền tự do, dân chủ, cơm áo hoà bình. Hệ
thống tổ chức Đảng và các cơ sở cách mạng của quần chúng đã được khôi phục.
b.Chủ trương và nhận thức mới của Đảng
Trong những năm 1936-1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp hội
nghị lần thứ hai (7/1936), lần thứ ba (3/1937), lần thứ tư (9/1937) và lần thứ năm (3/1938)… đề ra những
chủ trương mới về chính trị, tổ chức và hình thức đấu tranh.
Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh:
- Ban Chấp hành Trung ương xác định cách mạng ở Đông Dương vẫn là “ cách mạng tư sản dân
quuyền - phản đế và điền địa - lập chính quyền của công nông bằng hình thức xôviết, để dự bị điều kiện
đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. Song lúc này chưa trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp, lập chính quyền
công nông, giải quyết vấn đề điền địa. Yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân ta lúc này là tự do, dân
chủ, cải thiện đời sống. Vì vậy, Đảng phải nắm lấy yêu cầu này để phát động quần chúng đấu tranh.
- Về kẻ thù của cách mạng: Kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương cần tập
trung đánh đổ là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.
- Về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: Chống phátxít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn
phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, áo cơm và hoà bình. Trung ương quyết định lập Mặt
trận nhân dân phản đế (sau đổi tên thành Mặt trân dân chủ Đông Dương).
- Về đoàn kết quốc tế: Phải đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân và Đảng cộng sản Pháp “ủng
hộ Chính phủ Mặt trân nhân dân Pháp” để cùng nhau chống bọn phátxít ở Pháp và bọn phản động thuộc
địa ở Đông Dương.
- Về hình thức tổ chức và biện pháp đấu tranh: Tổ chức và đấu tranh công khai và nửa công khai,
hợp pháp và nửa hợp pháp, nhằm làm cho Đảng mở rộng sự quan hệ với quần chúng, giáo dục, tổ chức và
lãnh đảo quần chúng đấu tranh.
Về nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ:
- Nếu nhiệm vụ chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, thì có thể trước tập trung đánh đổ đế
quốc rồi sau mới giải quyết vấn đề điền địa. Nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh
đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước.
- Đây là nhận thức mới của Đảng, nó phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng và bước đầu khắc phục những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930.
- Tháng 3-1939, Đảng ra bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc, kêu gọi các
tầng lớp nhân dân phải thống nhất hành động hơn nữa trong việc đòi các quyền tự do dân chủ, chống nguy cơ
chiến tranh đế quốc.
- Tháng 7-1939, Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm Tự chỉ trích. Tác phẩm Tự chỉ
trích chẳng những có tác dụng lớn trong cuộc đấu tranh để khắc phục những lệch lạc, sai lầm trong phong
trào vận động dân chủ, tăng cường đoàn kết nhất trí trong nội bộ Đảng, mà còn là một văn kiện lý luận
quan trọng về xây dựng Đảng, về công tác vận động thành lập mặt trận thống nhất rộng rãi trong đấu
tranh cách mạng Việt Nam.
Tóm lại, trong những năm 1936-1939, chủ trương mới của Đảng đã giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng, các mối quan hệ giữa liên minh
công – nông và mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, giữa vấn đề dân tộc và giai cấp, giữa phong trào cách
mạng Đông Dương và phong trào cách mạng ở Pháp và trên thế giới; đề ra các hình thức tổ chức và đấu
10
tranh linh hoạt, thích hợp hướng dẫn quần chúng đấu tranh giành quyền lợi hàng ngày, chuẩn bị cho
những cuộc đấu tranh cao hơn vì độc lập tự do.
Nội dung các nghị quyết của BCHTW Đảng trong thời kỳ này đã thể hiện rõ sự trưởng thành của
Đảng ta về chính trị, tư tưởng, bản lĩnh cách mạng và sự sáng tạo của Đảng ta.
Cao trào dân chủ 1936 – 1939 thực sự là một cuộc vận động cách mạng sâu rộng, hiếm có ở một xứ
thuộc địa. Đảng ta đã sáng tạo nên những hình thức tổ chức, hình thức đấu tranh mới linh hoạt, gắn kết
phong trào cách mạng Đông Dương với cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa phát xít của nhân dân thế
giới.
II.CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM 1939 ĐẾN NĂM 1945
1.Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
a. Tình hình thế giới và trong nước
- Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Đế quốc Pháp lao vào cuộc chiến. Tháng
6-1940, Đức tấn công Pháp, Chính phủ Pháp đầu hàng Đức. Ngày 22-6-1941, quân phátxít Đức tấn công
Liên Xô.
- Ở Đông Dương, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, cấm lưu hành,
tàng trữ tài liệu cộng sản, đặt Đảng cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán các hội hữu
ái, nghiệp đoàn và tịch thu tài sản của các tổ chức đó.
- Thực dân Pháp, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân, tập trung lực lượng đánh
vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Chúng ban bố lệnh tổng động viên, thực hiện chính sách “kinh tế chỉ
huy” vơ vét sức người, sức của để phục vụ chiến tranh của đế quốc.
- Lợi dụng Pháp thua Đức, ngày 22-9-1940 phátxít Nhật đã tiến vào Lạnh Sơn và đổ bộ vào Hải
Phòng. Pháp đầu hàng Nhật và câu kết với Nhật thống trị nhân dân ta. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế
quốc, phátxít Pháp - Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
b.Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
Kể từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Ban Chấp hàng Trung ương Đảng đã họp Hội
nghị lần thứ sáu (11/1939), Hội nghị lần thứ bảy (11/1940) và Hội nghị lần thứ tám (5/1941). Ban chấp
hành Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:
Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên làm hàng đầu.
- Hội nghị TƯ sáu (11/1939) nhận định: trong điều kiện lịch sử mới, giải phóng dân tộc là nhiệm
vụ hàng đầu và cấp bách nhất của cách mạng Đông Dương. Vì vậy, tất cả mọi vấn đề cách mạng, kể cả
vấn đề ruộng đất cũng phải nhằm mục đích ấy mà giải quyết.
- Đến Hội nghị TƯ tám (51941) nhấn mạnh: mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải được giải
quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phátxít Pháp - Nhật. Cần phải thay đổi
chiến lược. Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật "không phải riêng của giai cấp vô sản và dân cày, mà là
nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân Đông Dương", "cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải
là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa,
mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp "dân tộc giải phóng", vậy thì cuộc cách
mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng". Bởi vì nếu lúc
này không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc thì toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp trâu
ngựa và quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.
Để tập trung cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Đảng chủ trương tạm gác khẩu hiệu "đánh đổ địa
chủ, chia ruộng đất cho dân cày" thay bằng các khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian
chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức.
Hai là, quyết định thành lập mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng nhằm
mục tiêu giải phóng dân tộc.
Để tập hợp lực lượng cách mạng đông đảo, BCHTW Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam
độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh (thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương) để
thu hút mọi người dân yêu nước đoàn kết cứu Tổ quốc, giống nòi.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân
dân ta trong giai đoạn hiện tại.
- Để đưa cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lực lượng cách mạng,
bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, tiến hành xây dựng căn cứ địa. Trung ương Đảng
quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích, tiến tới thành lập khu căn cứ
- Phương châm và hình thái khởi nghĩa ở nước ta là từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi
nghĩa: "Phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại
quân thù..." . Trong những hoàn cảnh nhất định "với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi
11
nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng
khởi nghĩa to lớn"
- Chú trọng công tác xây dựng Đảng, gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ công vận,
nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
c. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
Sự chuyển hướng chiến lược của Đảng bắt đầu từ Hội nghị TƯ sáu (11/1939) và đến Hội nghị TƯ
tám (5/1941) thì hoàn chỉnh, có ý nghĩa rất lớn:
- Đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách
mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện mục tiêu ấy.
- Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu,
tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị
của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, là
ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành
độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.
- Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng và các chỉ thị tiếp theo, các
cấp bộ đảng và Mặt trận Việt Minh đã tích cực xây dựng tổ chức đảng và các tổ chức cứu quốc của quần
chúng, phát triển lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh của quần chúng ở cả nông thôn và đô thị,
xây dựng các căn cứ địa cách mạng, tiến hành vũ trang cho quần chúng cách mạng, củng cố và phát triển
lực lượng du kích.
- Ngày 25-10-1941 Việt Minh công bố Tuyên ngôn với đồng bào cả nước: "Việt Nam độc lập đồng
minh (Việt Minh) ra đời". Cơ sở Việt Minh lần lượt được xây dựng ở nhiều địa phương. Tại Cao Bằng, có
nhiều xã và tổng hầu như toàn dân đã tham gia vào hội cứu quốc. Năm 1941, Nguyễn ái Quốc quyết định
thành lập đội vũ trang ở Cao Bằng để thúc đẩy việc phát triển cơ sở chính trị và chuẩn bị cho việc xây
dựng lực lượng vũ trang. Cao Bằng đã trở thành một căn cứ địa cách mạng, một địa bàn điển hình về xây
dựng và phát triển lực lượng, chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân.
-Tháng 2-1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên) bàn việc
mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất và xúc tiến việc chuẩn bị khởi nghĩa.
- Từ năm 1943 đến 1945, phong trào cách mạng phát triển ngày càng mạnh và đều khắp. ở Bắc Kỳ,
hầu hết các đảng bộ địa phương đã lãnh đạo xây dựng được các tổ chức cứu quốc ở hầu khắp các vùng ở
nông thôn và đô thị.
- Đảng đã đẩy mạnh hoạt động chống lại những nọc độc văn hóa tư tưởng phản động của Pháp-
Nhật và tay sai, tuyên truyền đường lối cứu nước của Đảng, cổ vũ quần chúng lên trận tuyến cách mạng.
Năm 1943, Đảng đưa ra bản Đề cương văn hóa Việt Nam, xây dựng trong tương lai một nền văn hóa mới
theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng.
-Cuối năm 1944, Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời, thu hút trí thức và các nhà hoạt động văn
hóa vào trận tuyến đấu tranh vì một nền văn hóa mới, vì sự nghiệp chống Pháp-Nhật, giành độc lập, tự do.
-Đảng vận động và giúp đỡ một số sinh viên, trí thức yêu nước và tiến bộ thành lập Đảng Dân chủ
Việt Nam (tháng 6-1944), một chính đảng của tư sản dân tộc và trí thức yêu nước, tiến bộ.
- Cùng với việc đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị, Đảng rất chú trọng xây dựng và phát triển
các căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang. ở trung tâm Bắc Sơn-Vũ Nhai, Cứu quốc quân tích cực
tiến hành công tác tuyên truyền vũ trang, gây cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ ra nhiều huyện thuộc
các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Yên...
-Về phía trung tâm Cao Bằng, phong trào Việt Minh phát triển mạnh mẽ. Khu căn cứ được mở
rộng sang các tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Các đoàn xung phong Nam tiến hoạt động mạnh, phát
triển cơ sở chính trị quần chúng trong các dân tộc thiểu số, đánh thông đường liên lạc bằng một hành lang
chính trị nối liền hai khu căn cứ Cao Bằng và Bắc Sơn-Võ Nhai (cuối năm 1943), chuẩn bị cho sự ra đời
khu giải phóng Việt Bắc về sau.
-Từ giữa năm 1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị Sửa soạn khởi nghĩa và ra lời kêu gọi nhân dân
"sắm vũ khí! đuổi kẻ thù chung!". Không khí chuẩn bị cho khởi nghĩa sôi nổi trong khu căn cứ.
-Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp tổ chức ra đời
ở huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng. Mấy ngày sau, đội đánh thắng liên tiếp hai trận ở Phai Khắt (ngày
25-12-1944) và Nà Ngần (ngày 26-12-1944) thuộc tỉnh Cao Bằng.
2. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
a.Phát động Cao trào kháng Nhật, cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần
Phát động Cao trào kháng Nhật, cứu nước:
- Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xô tiến như vũ bão
về phía Béclin. Phát xít Nhật lâm vào tình trạng nguy khốn. Mâu thuẫn Nhật - Pháp ngày càng gay gắt.
12
Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương. Quân Pháp đã nhanh chóng đầu hàng
quân Nhật.
- Ngay đêm 9/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng ở làng Đình Bảng
(Từ Sơn, Bắc Ninh). Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị: “Nhật - Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta”. Nội dung cơ bản như sau:
+ Chỉ thị nhận định: Cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo ra một
cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi. Tuy vậy, hiện
đang có những cơ hội tốt làm cho những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi.
+ Sau cuộc đảo chính, phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân
Đông Dương, vì vậy phải thay khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật – Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi
phát xít Nhật”.
+ Chỉ thị chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc
Tổng khởi nghĩa.
+ Phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng
căn cứ địa.
Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận:
- Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ và phong phú về
nội dung và hình thức. Hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang
được giải phóng.
- Ngày 15/4/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc
Kỳ tại Hiệp Hoà (Bắc Giang). Hội nghị đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng,
phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa, quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có
thành Việt Nam giải phóng quân, quyết định xây dựng bảy chiến khu trong cả nước và chủ trương phát
triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang..v.v..
- Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng chính thức được thành lập gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn,
Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận thuộc tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên
Bái, Vĩnh Yên...
- Giữa lúc phong trào quần chúng đang phát triển mạnh, thì nạn đói xảy ra làm hơn 2 triệu người chết.
Xuất phát từ lợi ích sống còn trước mắt của quần chúng, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc,
giải quyết nạn đói”. Chủ trương đó đã đáp ứng đúng nguyện vọng cấp bách của nhân dân, vì vậy, trong
một thời gian ngắn, Đảng đã động viên được hàng triệu quần chúng tiến lên trận tuyến cách mạng.
b.Chủ trương phát động tổng khởi nghĩa
- Chiến tranh thế giới lần thứ II bước vào giai đoạn kết thúc. Ở châu Á, phát xít Nhật đang đi gần
đến chỗ thất bại hoàn toàn.
- Trước sự phát triển hết sức nhanh chóng của tình hình, Trung ương quyết định họp Hội nghị toàn
quốc của Đảng tại Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến ngày 15/8/1945. Hội nghị quyết định phát
động toàn dân Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai, trước khi quân đồng
minh vào Đông Dương.
- Khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: “Phản đối xâm lược”; “Hoàn toàn độc lập”; “Chính quyền nhân
dân”. Những nguyên tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp thời, phải đánh chiếm ngay
những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay nông thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp.
- Hội nghị còn quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối ngoại trong tình hình
mới, cử Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc do Trường Chinh phụ trách và kiện toàn Ban chấp hành Trung ương.
- Ngay đêm 13/8/1945, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh Tổng khởi nghĩa.
- Ngày 16/8/1945, cũng tại Tân Trào, Quốc dân Đại hội họp. Đại hội nhiệt liệt tán thành chủ trương
Tổng khởi nghĩa của Đảng và Mười chính sách của Việt Minh, quyết định đặt tên nước là Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, xác định quốc kỳ, quốc ca, thành lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh
làm Chủ tịch.
- Ngay sau khi Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước:
“Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ra mà tự
giải phóng cho ta”.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa giành chính
quyền.
Ngày 19-8, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Hà Nội. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19-
8 tạo điều kiện thuận lợi lớn cho quá trình tổng khởi nghĩa đang tiếp diễn trong cả nước. Ngày 23-8, khởi
nghĩa giành thắng lợi ở Huế. Ngày 25-8, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Sài Gòn. Thắng lợi của khởi nghĩa
13
ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các đô thị khác đập tan các cơ quan đầu não của kẻ thù có ý nghĩa quyết định
thắng lợi của cách mạng trong phạm vi cả nước.
- Nhờ có sự chuẩn bị lực lượng chu đáo, lại nổ ra đúng thời cơ nên Cách mạng Tháng Tám đã
giành được thắng lợi nhanh, gọn, ít đổ máu. Chỉ trong vòng 15 ngày (từ 14 đến 28-8) cuộc tổng khởi
nghĩa đã thành công. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền cả nước về tay nhân dân. Ngày 30-8-1945,
một cuộc míttinh gồm hàng vạn người tham gia ở Ngọ Môn, thành phố Huế, chứng kiến Bảo Đại đọc lời
thoái vị và giao nộp ấn, kiếm cho đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Ngày 2-9-1945, Lễ độc lập được tổ chức trọng thể tại Quảng trường Ba Đình. Chính phủ lâm thời
ra mắt quốc dân. Trước cuộc míttinh của hàng chục vạn đồng bào thủ đô, thay mặt Chính phủ lâm thời,
Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
c) Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám
Kết quả và ý nghĩa:
- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp trong gần
một thế kỷ, lật nhào chế độ quân chủ gần nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người
làm chủ đất nước.
- Đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của lịch sử Việt Nam, đưa dân tộc ta bước vào một kỷ nguyên
mới: Kỷ nguyên độc lập, tự do.
- Góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, cung cấp thêm nhiều
kinh nghiệm quý báu cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giành quyền dân chủ.
- Cổ vũ mạnh mẽ nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc, thực dân giành độc lập, tự do.
Nguyên nhân thắng lợi:
- Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong bối cảnh quốc tế rất thuận lợi: Kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta
là phát xít Nhật đã bị Liên Xô và các lực lượng dân chủ thế giới đánh bại. Bọn Nhật ở Đông Dương và
tay sai tan rã.
- Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh gian khổ của toàn dân ta dưới
sự lãnh đạo của Đảng, đã được rèn luyện qua ba cao trào cách mạng rộng lớn: Cao trào 1930-1931, Cao
trào 1936-1939, Cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945. Quần chúng cách mạng được Đảng tổ chức, lãnh
đạo và rèn luyện bằng thực tiễn đấu tranh đã trở thành lực lượng chính trị hùng hậu, có lực lượng vũ trang
nhân dân làm nòng cốt.
- Đảng ta đã chuẩn bị được lực lượng vĩ đại của toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Việt minh, dựa
trên cơ sở liên minh công nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Đảng ta là người tổ chức và lãnh đạo cuộc cách mạng Tháng Tám. Đảng có đường lối cách mạng
đúng đắn, dày dặn kinh nghiệm đấu tranh, đoàn kết thống nhất, nắm đúng thời cơ, chỉ đạo kiên quyết,
khôn khéo, biết tạo nên sức mạnh tổng hợp để áp đảo kẻ thù và quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi
nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố chủ yếu nhất, quyết định thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945.
Bài học kinh nghiệm:
Một là, giương cao ngọn cờ độc lập, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong
kiến.
Hai là, toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công – nông.
Ba là, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.
- Muốn lợi dụng được mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù phải xác định rõ kẻ thù lâu dài và kẻ thù cụ
thể trước mắt cần phải đánh đổ. Không phân biệt được kẻ thù trước mắt với kẻ thù lâu dài thì sẽ không
tranh thủ được lực lượng cách mạng và các tầng lớp trung gian để chống đế quốc xâm lược.
-
Giai đoạn 1939 – 1945, Đảng ta đã thành công trong việc lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ
thù.
+ Lợi dụng mẫu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và phát xít Nhật. Trong chiến tranh thế giới thứ 2 có
sự mâu thuẫn giữa phe đế quốc với phát xít, chúng ta đứng về phe các nước đồng minh chống phát xít..
Khi Nhật đảo chính Pháp, Đảng ta xác định phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt duy
nhất của nhân dân Đông Dương, vì vậy phải thay khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật – Pháp” bằng khẩu
hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”. Việc xác định đúng kẻ thù và thay đổi khẩu hiệu như trên sẽ cô lập được
kẻ thù chính của nhân dân ta và tranh thủ sự giúp đỡ của đồng minh.
+ Lợi dụng mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và bộ phận thế lực địa chủ phong kiến. Chiến tranh
thế giới thứ 2 nổ ra, Đảng chuyển hướng chiến lược đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên làm hàng đầu.
14
Để tập trung cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Đảng chủ trương tạm gác khẩu hiệu "đánh đổ địa chủ, chia
ruộng đất cho dân cày" thay bằng các khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho
dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức. Tức là chưa đánh vào toàn bộ
giai cấp địa chủ phong kiến. Đây là chủ trương khôn khéo nhằm tập hợp lực lượng giải quyết nhiệm vụ
chủ yếu.
+ Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ ngụy quyền tay sai của Pháp và Nhật.
+ Trong khởi nghĩa, đề ra nguyên tắc đối ngoại thêm bạn, bớt thù triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa
Pháp – Anh và Mỹ - Tưởng.
Bốn là, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực một cách thích hợp để đập tan
bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.
Năm là, nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật tạo thời cơ và chớp thời cơ.
Thời cơ là khách quan, nhưng muốn tận dụng được yếu thời cơ phải có sự chuẩn bị về thực lực cách
mạng, tức là yếu tố chủ quan. Sự lớn mạnh của cách mạng (yếu tố chủ quan) làm cho kẻ thù suy yếu sẽ
thúc đẩy thời cơ nhanh chóng đi đến chín muồi.
- Tạo thời cơ: là quá trình chuẩn bị thực lực cách mạng về mọi mặt: xây dựng lực lượng chính trị,
từng bước xây dựng lực lượng vũ tranh, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, xây dựng tổ
chức đảng, đẩy mạnh chiến tranh du kích, khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận… (được thể
hiện qua các văn kiện của Đảng và hoạt động thực tiễn cách mạng giai đoạn này)
- Chớp thời cơ: Trên cơ sở chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, Đảng ta chọn đúng thời cơ để tổng khởi
nghĩa. Đó là thời cơ “ngàn năm có một”, nổ ra đúng lúc, kịp thời, chính xác. Trước thời điểm đó cũng
không được, vì quân Nhật chưa đầu hàng, kẻ thù còn mạnh sẽ đàn áp cuộc Tổng khởi nghĩa. Sau thời
điểm đó cũng không được, vì quân đồng minh sẽ vào nước ta dựng lên chính phủ tay sai theo ý đồ của họ.
Chỉ có thời điểm đó, kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị Liên Xô và các lực lượng dân
chủ thế giới đánh bại. Bọn Nhật ở Đông Dương và tay sai hoang mang, tan rã, quân đồng minh chưa kịp
vào Đông Dương, cho nên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền diễn ra nhanh gọn, ít đổ máu.
Sáu là, xây dựng một Đảng Mác – Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
CHƯƠNG III
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC
(1945 – 1975)
I. ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC
DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 – 1954)
1. Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (1945 – 1946)
a. Hoàn cảnh nước ta sau Cách mạng Tháng Tám
* Thuận lợi
+ Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, uy tín và địa vị của Liên Xô được nâng cao trên trường quốc tế.
Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở thành một dòng thác cách mạng.
Phong trào dân chủ và hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ.
+ Ở trong nước, chính quyền nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã được kiến lập có
hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Nhân dân lao động đã làm chủ vận mệnh của dân tộc. Lực lượng vũ
trang nhân dân đang phát triển. Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh.
* Khó khăn
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành lập đã phải đương đầu với
những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng.
- Đất nước bị các thế lực đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt.
+ Cuối tháng 8 - 1945, gần 20 vạn quân của chính phủ Tưởng Giới Thạch ồ ạt kéo vào nước ta từ vĩ
tuyến 16 trở ra làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, chúng còn ráo riết thực hiện âm mưu tiêu diệt
Đảng ta, phá tan Việt Minh, đánh đổ chính quyền cách mạng, lập chính quyền phản động tay sai của
chúng.
+ Phía Nam vĩ tuyến 16, quân đội Anh với danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp quân đội Nhật đã
đồng loã và tiếp tay cho thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta lần thứ hai.
+ Trên đất nước ta lúc đó còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Một số quân Nhật đã
thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng cùng với quân Anh dọn đường cho quân Pháp mở rộng vùng
chiếm đóng ở miền Nam.
+ Lúc này, lực lượng tay sai phản động trong hai tổ chức "Việt quốc" (Việt Nam quốc dân Đảng)
và "Việt cách" (Việt Nam cách mạng đồng minh hội) và Đại Việt dựa vào thế lực bên ngoài ráo riết hoạt
15
động, chống lại cách mạng. Chúng lập chính quyền phản động ở Móng Cái, Yên Bái, Vĩnh Yên. Chưa
bao giờ trên đất nước ta có nhiều thù trong, giặc ngoài như lúc này.
- Trong lúc đó, ta còn phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về kinh tế, xã hội.
+ Nạn đói ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra chưa được khắc phục. Ruộng đất bị bỏ hoang. Công
nghiệp đình đốn. Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại thương đình trệ. Tình hình tài chính rất khó
khăn, kho bạc chỉ có 1,2 triệu đồng, trong đó quá nửa là tiền rách. Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong
tay tư bản Pháp.
+ Quân Tưởng tung tiền quốc tệ và quan kim gây rối loạn thị trường. 95% số dân không biết chữ,
các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại hết sức nặng nề.
- Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chưa có nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với
Chính phủ ta. Đất nước bị bao vây bốn phía.
- “Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” là những hiểm hoạ đối với chế độ mới, vận mệnh dân tộc
như “ngàn cân treo sợi tóc”. Tổ quốc lâm nguy !.
b. Chủ trương “kháng chiến kiến quốc” của Đảng
Ngày 25/11/1945, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị kháng chiến kiến quốc. Nội dung cơ
bản như sau:
- Về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định mục tiêu là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là “Dân
tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”.
- Về xác định kẻ thù, Đảng chỉ rõ “kẻ thù chính của chúng ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược
phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”. Vì vậy, phải “lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực
dân Pháp xâm lược”.
- Về phương hướng, nhiệm vụ, Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần khẩn trương
thực hiện là: “củng cố chính quyền, chống thực dân pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống
cho nhân dân”.
- Về ngoại giao, Đảng chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu “Hoa -
Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối
với Pháp.
Ý nghĩa:
+ Chỉ thị đã xác định đúng kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm lược, chỉ ra
những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng, nhất là nêu rõ hai nhiệm vụ chiến lược mới
của cách mạng Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám là xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ đất nước.
+ Đề ra những nhiệm vụ, biện pháp cụ thể về đối nội, đối ngoại để khắc phục nạn đói, nạn dốt,
chống thù trong giặc ngoài bảo vệ chính quyền cách mạng.
+ Những nội dung của chủ trương kháng chiến kiến quốc được Đảng tập trung chỉ đạo thực hiện
trên thực tế với tinh thần kiên quyết, khẩn trương, linh hoạt, sáng tạo, trước hết là giai đoạn từ tháng
9/1945 đến cuối năm 1946.
c. Kết quả, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm
Kết quả
- Về chính trị - Xã hội: Đã xây dựng được một nền móng cho chế độ xã hội mới - chế độ dân chủ
nhân dân với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết.
-Về kinh tế, văn hoá:
+ Đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xoá bỏ các thứ thuế vô lý của chế độ cũ, ra
sắc lệnh giảm tô 25%, xây dựng ngân quỹ quốc gia. Các lĩnh vực sản xuất được hồi phục. Cuối năm 1945,
nạn đói cơ bản được đẩy lùi, năm 1946 đời sống nhân dân được ổn định và có cải thiện.
+ Cuộc vận động toàn dân xây dựng nền văn hoá mới đã bước đầu xoá bỏ được nhiều tệ nạn xã hội
và tập tục lạc hậu. Phong trào diệt dốt, bình dân học vụ được thực hiện sôi nổi. Cuối năm 1946 cả nước đã
có thêm 2,5 triệu người biết đọc, biết viết.
- Về bảo vệ chính quyền cách mạng:
+ Đảng đã kịp thời lãnh đạo nhân dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến và phát động phong trào Nam
tiến chi viện Nam Bộ, ngăn không cho quân Pháp đánh ra Trung Bộ.
+ Thực hiện chính sách lược nhân nhượng đối với quân đội Tưởng và tay sai của chúng để giữ
vững chính quyền, tập trung lực lượng chống Pháp ở miền Nam.
+ Khi Pháp - Tưởng ký Hiệp ước Trùng Khánh (28-2-1946), thoả thuận mua bán quyền lợi với
nhau, cho Pháp kéo quân ra miền Bắc, Đảng lại mau lẹ chỉ đạo chọn giải pháp hoà hoãn, dàn xếp với
Pháp để buộc quân Tưởng phải rút về nước. Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946, cuộc đàm phán ở Đà Lạt, ở
Phôngtennơbờlô (Phongtennebleau, Pháp), Tạm ước 14/9/1946 đã tạo điều kiện cho quân dân ta có thêm
thời gian để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
16
Ý nghĩa:
- Đã bảo vệ được nền độc lập của đất nước, giữ vững chính quyền cách mạng; xây dựng được
những nền móng đầu tiên cơ bản cho một chế độ mới, chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà;
- Chuẩn bị những điều kiện cần thiết, trực tiếp cho cuộc kháng chiến toàn quốc sau đó.
Nguyên nhân thắng lợi: Đảng đã đánh giá đúng tình hình nước ta sau Cách mạng Tháng Tám, kịp
thời đề ra chủ trương kháng chiến, kiến quốc đúng đắn; xây dựng và phát huy được của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc; lợi dụng được mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch, v.v..
Bài học kinh nghiệm: 1. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để xây dựng và bảo
vệ chính quyền cách mạng. 2.Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù
chính, coi sự nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần thiết
trong hoàn cảnh cụ thể.
2. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân
(1946-1954)
a. Hoàn cảnh lịch sử
- Tháng 11-1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng
Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở Hà Nội. Pháp gửi tối hậu
thư đòi tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, kiểm soát an ninh trật tự ở thủ đô.
- Thực tế cho thấy khả năng hòa hoãn không còn nữa. Trong thời điểm lịch sử đó, Đảng ta đã quyết
định hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ động tiến công trước khi thực dân
Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Vào lúc 20 giờ ngày 19/12/1946, tất cả các chiến
trường trong cả nước đồng loạt nổ súng.
b. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến
Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành, bổ sung, hoàn chỉnh qua thực tiễn.
Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được tập trung trong ba văn kiện lớn. Đó là Chỉ thị
Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng (12/12/1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ
Chí Minh (19/12/1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh (3/1947).
Nội dung đường lối:
- Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, “Đánh phản động
thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”
- Tính chất kháng chiến: Là một cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính
nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện, lâu dài. Cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và
dân chủ mới.
- Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn
dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
- Chính sách kháng chiến: “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp. Đoàn kết
với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân.
- Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến: “Đoàn kết toàn dân… động viên nhân lực, vật lực, tài
lực, thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến. Tăng gia sản xuất,
thực hiện kinh tế tự túc…”.
- Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi.
Đưòng lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa
kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa
Mác – Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ.
Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh
chóng đi vào ổn định và phát triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi.
Tháng 1/1948, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương mở rộng đã đề ra nhiệm vụ và các biện pháp
về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa nhằm thúc đẩy kháng chiến tiến lên giai đoạn mới. Tháng 1/1950,
Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng họp, đề ra chủ trương "gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuyển
mạnh sang tổng phản công trong năm 1950" và quyết định tổng động viên theo khẩu hiệu "Tất cả cho
tiền tuyến, tất cả để chiến thắng".
Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng từ năm 1947 đến năm 1950, Đảng đã tập trung chỉ đạo
cuộc chiến đấu giam chân địch ở các đô thị, đánh bại cuộc hành quân lớn của địch lên Việt Bắc (1947),
đặc biệt là giành thắng lợi trong Chiến dịch Biên giới ( 1950).
Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới đã giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của địch. Ta đã
đập tan tuyến phòng thủ mạnh của địch, giải phóng hoàn toàn khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình
Lập, nối liền Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới đánh dấu sự
trưởng thành vượt bậc về trình độ tác chiến và nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch của quân đội ta. Quân ta đã
17
giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính. Thắng lợi đó đã tạo ra một bước chuyển
biến lớn đưa cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn mới. Quân đội ta đã nắm quyền chủ động chiến lược
trên chiến trường Bắc Bộ, chủ động tiến công và phản công ngày càng lớn.
Về đường lối xây dựng chế độ dân chủ nhân dân:
-
Đến đầu năm 1951, tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương có nhiều chuyển biến mới.
+ Liên Xô lớn mạnh vượt bậc về mọi mặt, các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu bước vào công cuộc
xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời làm thay đổi
so sánh lực lượng có lợi cho hoà bình và phong trào cách mạng.
+ Mỹ trở thành tên sen đầm quốc tế, tăng cường giúp đỡ Pháp và can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến
tranh Đông Dương.
+ Nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cuộc kháng
chiến của nhân dân ba được giành được thắng lợi quan trọng.
- Điều kiện lịch sử đã đặt ra cho Đảng ta các yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng
Việt Nam, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi; đặc biệt là yêu cầu Đảng phải ra công khai lãnh đạo cách
mạng.
Tháng 2-1951, Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp Đại hội đại biểu lần thứ hai tại tỉnh Tuyên
Quang. Đại hội đã nhất trí tán thành Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương do chủ tịch Hồ
Chí Minh trình bày và ra Nghị quyết tách Đảng cộng sản Đông Dương thành ba Đảng cách mạng để lãnh
đạo cuộc kháng chiến của ba dân tộc đi tới thắng lợi. Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là
Đảng Lao động Việt Nam.
Báo cáo hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội do
Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày tại Đại hội của Đảng Lao động Việt Nam đã thừa kế và phát triển
đường lối cách mạng trong các cương lĩnh chính trị trước đây của Đảng thành đường lối cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân. Nội dung cơ bản là:
- Hiện nay, xã hội Việt Nam có ba tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong
kiến. Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn
này đang được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc ta chống thực dân Pháp và can thiệp
Mỹ.
- Cách mạng Việt Nam có hai đối tượng, đối tượng chính là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ.
Đối tượng phụ là phong kiến phản động.
- Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành
độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho
người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn thành giải phóng dân
tộc.
- Động lực của cách mạng gồm “công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản tri thức và
tư sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần
tử đó họp thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công, nông và lao động tri thức”
- Đặc điểm cách mạng: “Giải quyết những nhiệm vụ cơ bản nói trên do nhân dân lao động làm
động lực, công nông và lao động trí thức làm nền tảng và giai cấp công nhân lãnh đạo, cách mạng Việt
Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Cách mạng dân chủ tư sản lối mới tiến
triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa”
- Triển vọng của cách mạng: “Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đưa
Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội”
- Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: “Đó là một con đường đấu tranh lâu dài, đại thể trải qua ba
giai đoạn: Giai đoạn thư nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai,
nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có
ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là
xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Ba giai đoạn ấy không tách rời
nhau, mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau”).
- Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng: “Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân. Đảng
Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam”. Mục đích của Đảng
là phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Chính sách của Đảng: Có 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm
móng cho chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi.
18
- Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hoà bình và dân chủ, phải tranh thủ sự giúp đỡ của các
nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới, của Trung Quốc, Liên Xô; thực hiện đoàn kết Việt - Trung - Xô và
đoàn kết Việt - Miên - Lào.
Đường lối, chính sách của Đại hội đã được bổ sung, phát triển qua các hội nghị Trung ương tiếp
theo: Hội nghị TƯ lần thứ nhất (3/1951), lần thứ hai (10/1950), lần thứ tư (1/1953), lần thứ năm
(11/1953).
Đường lối hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã
hội của Đảng được thực hiện trên thực tế trong giai đoạn 1951-1954
3. Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm.
a.Kết quả và ý nghĩa lịch sử
Kết quả
- Về chính trị: Đảng ra hoạt động công khai đã có điều kiện kiện toàn tổ chức, tăng cường sự lãnh
đạo đối với cuộc kháng chiến. Bộ máy chính quyền các cấp được củng cố. Khối đại đoàn kết toàn dân
phát triển lên một bước mới. Chính sách ruộng đất được triển khai, từng bước thực hiện khẩu hiệu người
cày có ruộng.
- Về quân sự: Đến cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã có sáu đại đoàn bộ binh, một đại đoàn công
binh – pháo binh. Quân dân ta giành thắng lợi ở các chiến dịch Trung du, Đường 18, Hà – Nam – Ninh,
Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, v.v.. và Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954
- Về ngoại giao: Ngày 8/5/1954, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh Đông Dương chính thức
khai mạc ở Giơnevơ (Thuỵ Sĩ). Ngày 21/7/1954, các văn bản của Hiệp nghị Giơnevơ về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương được ký kết, cuộc kháng chiến chống thức dân Pháp xâm lược của
quân dân ta kết thúc thắng lợi.
Ý nghĩa lịch sử:
Đối với nước ta
- Thắng lợi của nhân dân ta đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế
quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lâp, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
các nước Đông Dương;
- Giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm căn cứ
địa hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam;
- Tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc
tế.
Đối với quốc tế
- Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới;
- Mở rộng địa bàn tăng cường lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới;
- Mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực
dân Pháp.
- Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân
hùng mạnh. Đó là, một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi vẻ
vang của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
b. Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm
Nguyên nhân thắng lợi:
- Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng, với đường lối kháng chiến đúng đắn đã huy động được sức
mạnh toàn dân đánh giặc.
- Có lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân do Đảng ta trực tiếp lãnh đạo ngày càng vững mạnh,
chiến đấu dũng cảm, mưu lược tài trí, là lực lượng quyết định tiêu diệt địch trên chiến trường.
- Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân được giữ vững, củng cố và lớn
mạnh, làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới.
- Có sự liên minh đoàn kết chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia cùng
chống một kẻ thù chung; đồng thời có sự ủng hộ giúp đỡ to lớn của Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã
hội chủ nghĩa, các dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Pháp.
Bài học kinh nghiệm:
Một là, đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng đường lối đó cho toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân thực hiện.
Hai là, kết hợp chặt chẽ, đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến và xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội, trong đó nhiệm vụ tập trung hàng
đầu là chống đế quốc.
19
Ba là, thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu phương
ngày càng vững mạnh.
Bốn là, quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài, đồng thời tích cực, chủ
động đề ra và thực hiện phương pháp tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự sáng tạo, kết hợp đấu
tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao.
Năm là, tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của
Đảng trong chiến tranh.
II. ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC, THỐNG NHẤT TỔ QUỐC (1954-
1975)
1. Đường lối trong giai đoạn 1954 - 1964
a. Bối cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam sau tháng 7- 1954
- Thuận lợi:
+ Hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh.
+ Phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh;
phong trào hoà bình, dân chủ lên cao ở các nước tư bản;
+ Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa chung cho cả nước;
+ Dân tộc ta có ý chí, quyết tâm thống nhất Tổ quốc.
- Khó khăn:
+ Đế quốc Mỹ âm mưu làm bá chủ thế giới và các chiến lược toàn cầu phản cách mạng;
+ Xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc;
+ Đất nước ta bị chia làm hai miền, kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu, miền Nam trở thành
thuộc địa kiểu mới của Mỹ và đế quốc Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta.
b. Quá trình hình thành, nội dung và ý nghĩa của đường lối
Quá trình hình thành và nội dung đường lối:
- Tháng 7/1954, Hội nghị TƯ sáu đã xác định đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân Việt Nam
- Tháng 9/ 1954, Bộ Chính trị ra Nghịquyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới đã
xác định cách mạng Việt Nam từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, từ nông thôn chuyển vào thành thị, từ
phân tán chuyển đến tập trung.
- Tại Hội nghị lần thứ bảy (3/1955) và lần thứ tám (8/1955), Trung ương Đảng nhận định: Muốn
chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều
cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời và giữ vững đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân
miền Nam.
- Tháng 8/1956, đồng chí Lê Duẩn viết Dự thảo Đường lối cách mạng miền Nam đã khẳng định:
con đường phát triển của cách mạng miền Nam là bạo lực cách mạng.
- Tháng 12/1957, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13 xác định: Mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng
hiện nay là củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu tranh để thực
hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hòa bình”.
- Tháng 1/1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp bàn về cách mạng miền Nam đã nhận định:
+ Hiện nay cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm 2 nhiệm vụ chiến lược: cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến
lược đó tuy có tính chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau… nhằm phương hướng chung là giữ
vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên
chủ nghĩa xã hội”.
+ Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là “giải phóng miền Nam khỏi ách thống
trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ ở miền Nam”.
+ “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính
quyền về tay nhân dân”. Đó là con đường “lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của
quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong
kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”. “Tuy vậy, cần thấy rằng cách mạng ở miền Nam
vẫn có khả năng hòa bình phát triển, tức là khả năng dần dần cải biến tình thế, dần dần thay đổi cục diện
chính trị ở miền Nam có lợi cho cách mạng. Khả năng đó hiện nay rất ít, song Đảng ta không gạt bỏ khả
năng đó, mà cần ra sức tranh thủ khả năng đó”.
> Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã mở đường cho cách
mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm
tháng khó khăn của cách mạng.
20
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- giao_trinh_duong_loi_cach_mang_cua_dang_cong_san_viet_nam.doc