Chuyên đề 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nâng cao năng lực dạy học cho giáo viên Tiểu học và Trung học Cơ sở
CHUYÊN ĐỀ 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC DẠY
HỌC CHO GIÁO VIÊN TIỂU HỌC VÀ TRUNG HỌC CƠ SỞ
LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU: KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN
Chủ nhiệm đề tài: Bùi Trọng Đắc
Tổ chức chủ trì: Trường CĐSP HÒA BÌNH
- 1-
CHUYÊN ĐỀ 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC DẠY HỌC CHO GIÁO
VIÊN TIỂU HỌC VÀ TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
a) Các công trình nghiên cứu nước ngoài
Những năm cuối thập niên 60 của thế kỉ XX, các khái niệm "vốn con người"
(Human capital), "nguồn lực con người" (Human resources) xuất hiện ở Hoa Kỳ và
do nhà kinh tế học người Mĩ Theodor Schoultz đề xuất. Trên quan điểm ấy, những
năm 70, 80 của thế kỷ XX, nhà kinh tế học người Mĩ Gary Backer (giải Nobel kinh
tế 1992) lại tiếp tục khẳng định khái niệm về phát triển nguồn lực con người, tức là
phát triển nguồn nhân lực của một ngành, một lĩnh vực.
Từ năm 1980, nhà xã hội học người Mĩ, Leonard Nadle đã đưa ra sơ dồ quản lí
nguồn nhân lực để diễn tả mối quan hệ và các nhiệm vụ của công tác quản lí nguồn
nhân lực. Ông cho rằng, quản lí nguồn nhân lực có ba nhiệm vụ chính, đó là: Phát
triển nguồn nhân lực (gồm giáo dục đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu, phục vụ); Sử
dụng nguồn nhân lực (gồm tuyển dụng, sàng lọc, bố trí, đánh giá, đãi ngộ, kế hoạch
hóa sức lao động); Môi trường nguồn nhân lực (gồm mở rộng chủng loại việc làm,
mở rộng qui mô làm việc và phát triển tổ chức). (Dẫn theo [7])
Kết quả nghiên cứu của Leonard Nadle đã được nhiều nước trên thế giới sử
dụng. Christian Batal trong bộ sách "Quản lí nguồn nhân lực trong khu vực nhà
nước" cũng đã khai thác theo hướng này và đưa ra một lí thuyết tổng thể về phát
triển nguồn lực. Trong đó, ông sử dụng kết quả nghiên cứu thuộc các lĩnh môn khoa
khác (giáo dục học, dự báo, dân số học, toán học...) để đưa ra một bức tranh toàn
cảnh về nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực, bao gồm từ khâu kiểm kê, đánh giá đến
nâng cao năng lực, hiệu lực của nguồn nhân lực. [5]
b) Các công trình nghiên cứu trong nước
* Những định hướng chiến lược của Đảng, Nhà nước, của ngành giáo dục đào
tạo về phát triển nguồn nhân lực trong giáo dục và đào tạo:
- 2-
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương
(BCHTW) 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã chỉ ra
nhiệm vụ của các trường sư phạm. [1]
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới của giáo dục Tiểu học (TH) và Trung học cơ sở
(THCS), việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên TH và THCS, trong đó nâng
cao năng lực dạy học trở thành một nhu cầu cấp bách trên phạm vi quốc gia. Đặc
trưng của chương trình giáo dục phổ thông mới là thể hiện mục tiêu giáo dục phổ
thông; quy định những yêu cầu về phẩm chất và năng lực của học sinh cần đạt được
sau mỗi cấp học, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục phổ thông, phương pháp và
hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với
các môn học, hoạt động giáo dục ở mỗi lớp và mỗi cấp học của giáo dục phổ thông.
Trong tài liệu phục vụ tuyên truyền, phổ biến, quán triệt và triển khai thực hiện
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XVI nhiệm ki 2015-2020
đã chỉ ra những hạn chế, yếu kém về giáo dục và đào tạo trong đó nhấn mạnh "Chât
lượng giáo dục và đào tạo giữa các vùng chưa đồng đều", Chất lượng nguồn nhân
lực, nhất là nhân lực chất lượng cao trong một số ngành nghề, địa phương chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển văn hóa- xã hội của tỉnh".
Để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, Nghị quyết đại hội Đảng bộ Tỉnh
Hòa Bình lần thứ XVI đã chỉ ra mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cho ngành giáo dục
là: "... đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ, toàn diện và thực chất các điều kiện đảm bảo chất
lượng đưa sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển theo hướng chuẩn hóa, hiện đại
hóa...nâng cao dân trí..., tọa nguồn nhân lực chất lượng cao, đủ năng lực, trình độ và
phẩm chất đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế; tạo chuyển biến căn bản, rõ nét về
chât lượng, hiệu quả hướng tới mục tiêu xây dựng sự nghiệp giáo dục và đào tọa
phát triển bền vững, đồng bộ trên nền tảng xã hội học tập tiến bộ..." [16.11].
* Những công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề nâng cao năng
lực dạy học cho đội ngũ giáo viên người dân tộc thiểu số:
- 3-
Nghiên cứu về phát triển đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên vùng đặc biệt khó
khăn có công trình "Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý ngành giáo dục ở vùng đặc
biệt khó khăn khu vực miền núi phía bắc Việt Nam" của các tác giả Nguyễn Văn Lộc,
Nguyễn Văn Hộ và Nguyễn Thị Tính (2013). Nghiên cứu được tiến hành tại các tỉnh
Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Bắc Cạn để khảo sát, đánh giá, làm rõ thực trạng
đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên ở vùng đặc biệt khó khăn thuộc khu
vực miền núi phía Bắc; trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao phẩm
chất, năng lực và hiệu quả công tác của đội ngũ, góp phần phát triển giáo dục, kinh
tế-xã hội ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam.[14]
Nguyễn Xuân Ngạn (2011) trong công trình nghiên cứu "Vấn đề chính sách đối
với giáo viên phổ thông đang công tác ở miền núi" đã đề cập tới chính sách hiện
hành của Nhà nước đối với đội ngũ giáo viên đang công tác ở miền núi trên các vấn
đề: chính sách tuyển chọn, chính sách đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, chính sách sử
dụng giáo viên, chính sách đãi ngộ giáo viên. Tác giả đã tập hợp, phân tích ý nghĩa
thực tiễn của chính sách hiện hành của Nhà nước đối với giáo viên phổ thông khu
vực miền núi, nêu rõ những yếu tố tích cực, đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế của
các chính sách đó[15].
Bùi Thị Ngọc Diệp (2004), trong bài viết: Vấn đề đào tạo cán bộ người dân tộc
thiểu số phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đổi mới đất nước, cho
rằng: Lực lượng cán bộ người dân tộc thiểu số còn thiếu và yếu. Ở các tỉnh miền núi
phía Bắc tình trạng thiếu cán bộ dân tộc thiểu số trầm trọng nhất là hai dân tộc
H'Mông và Dao. tình trạng này đã ảnh hưởng đến chất lượng các hoạt động trong đó
có hoạt động giáo dục. Theo tác giả, chất lượng giáo dục ở miền núi, vùng dân tộc
thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn chưa đáp ứng được mục tiêu đào tạo nguồn nhân
lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Đáng chú ý nhất là số cán bộ đã qua đào
tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp chiếm tỉ lệ còn thấp, trình độ, năng lực của đội ngũ cũng
như sự phân bố các vùng và các dân tộc không đồng đều. Từ thực trạng tác giả đã
đưa ra kiến nghị đề nghị Ủy ban Dân tộc hệ thống và rà soát toàn bộ chế độ chính
- 4-
sách đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số từ trước đến nay làm cơ sở cho việc nghiên cứu,
chỉnh sửa, đề xuất mới phù hợp với giai đoạn hiện nay.[8]
Tương tự như vậy, Mai Công Khanh (2008), trong bài: Giáo dục và đào tạo với
phát triển nguồn nhân lực cho miền núi, vùng dân tộc thiểu số, cũng đề cập đến tính
cấp thiết của việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho khu vực miền núi, vùng
dân tộc thiểu số. Tác giả cho rằng việc theo dõi, quản lí và sử dụng nguồn nhân lực
đào tạo chưa có hệ thống, chất lượng đào tạo thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu phát
triển của khu vực miền múi và vùng dân tộc thiểu số hiện nay. Trong số các giải
pháp mà tác giả đề xuất, đáng chú ý là các giải pháp sau: 1) Tổ chức các hình thức
trường lớp phù hợp với khu vực miền núi, vùng dân tộc; 2) Tăng cường các nguồn
lực đầu tư cho giáo dục đào tạo; 3) Đổi mới chương trình, phương thức đào tạo; 4)
Xây đội ngũ giáo viên, đội ngũ cán bộ quản lý đủ mạnh về số lượng, đảm bảo về
chất lượng, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực về chuyên môn, kĩ thuật và bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. [13.8]
Trong bài: Về mô hình đào tạo cán bộ quản lý dân tộc thiểu số từ các trường
đại học, Phạm Hồng Quang (2008) đề cập đến vấn đề đào tạo giáo viên kết hợp với
đào tạo cán bộ quản lý giáo dục là người dân tộc thiểu số từ các trường cao đẳng,
đại học, đặc biệt từ các trường cao đẳng, đại học sư phạm miền núi. Qua bài báo của
tác giả, có thể thấy mô hình phù hợp là kết hợp đào tạo giáo viên với đào tạo cán bộ
quản lý; kết hợp đào tạo kiến thức cơ bản, nền tảng trong chương trình đào tạo giáo
viên với kiến chuyên sâu về quản lí giáo dục. [18]
Về năng lực dạy học của giáo viên phổ thông, tác giả Bùi Minh Hiền, Nguyễn
Vũ Bích Hiền (2015) trong công trình "Quản lí và lãnh đạo nhà trường" đã bàn về
một khía cạnh của năng lực dạy học đó là năng lực tự chủ chuyên môn của giáo viên.
Công trình đã nêu rõ vai trò của năng lực tự chủ chuyên môn và nguyên nhân cản trở
sự phát triển năng lực tự chủ chuyên môn của giáo viên. Ngoài ra, công trình còn bàn
về năng lực đánh giá của giáo viên theo quan điểm vì sự tiến bộ của người học [10].
Vũ Xuân Hùng (2012) nghiên cứu những vấn đề về dạy học hiện đại và nâng cao
năng lực dạy học cho giáo viên. Trong nghiên cứu này, tác giả đã cung cấp một số
- 5-
phương pháp dạy học hiện đại và biện pháp nâng cao năng lực dạy học cho đội ngũ
giáo viên đáp ứng yêu cầu giáo dục hiện nay [12]. Tác giả Phan Trọng Ngọ (2015),
với bài viết trong tạp chí khoa học Volumn 6, trường ĐHSP Hà Nội đã đề xuất một
số giải pháp về bồi dưỡng năng lực dạy học giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo
dục phổ thông. [17]
Trong đề tài khoa học cấp tỉnh năm 2007, trường CĐSP Hòa Bình đã bàn về
thực trạng năng lực dạy học của đội ngũ giáo viên tiểu học và trung học cơ sở và đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực dạy học cho đội ngũ giáo viên giai đoạn
2005-2010. Các giải pháp này rất có giá trị thực tiễn trong phát triển đội ngũ giáo
viên của tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2005-2010. [4]
Có thể nói các nghiên cứu khoa học trên đã đề cập đến vấn đề quản lí, phát triển
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đặc biệt là cán bộ là người dân tộc thiểu số
trong đó có đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên. Tuy nhiên các tác giả mới chỉ dừng
lại ở những gợi ý, những định hướng có tính khái quát mà chưa đi sâu vào nghiên
cứu một cách toàn diện vấn đề phát triển năng lực dạy học cho đội ngũ giáo viên
người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi và vùng đặc biệt khó khăn.
Đề tài “Nâng cao năng lực dạy học cho giáo viên người dân tộc thiểu số cấp
tiểu học và trung học cơ sở tỉnh Hòa Bình góp phần đổi mới giáo dục phổ thông”
được xây dựng và nghiên cứu nhằm đánh giá đúng thực trạng hiện tại và năng lực
dạy học của đội ngũ giáo viên người dân tộc thiểu số bậc tiểu học và THCS tỉnh Hòa
Bình. Trên cơ sở đó tìm ra những giải pháp phù hợp với điều kiện của tỉnh, của
ngành để nâng cao năng lực dạy học cho đội ngũ giáo viên người dân tộc, đáp ứng
yêu cầu đổi mới toàn diện về giáo dục đào tạo.
1.2. Một số khái niệm, thuật ngữ liên quan đến đề tài
a) Dân tộc thiểu số, giáo viên, giáo viên người dân tộc thiểu số:
* Dân tộc thiểu số:
Dưới góc độ nhân chủng học, khái niệm thiểu số được dùng khá thông dụng.
Khái niệm này thường được dùng để chỉ những dân tộc ít người hơn so với cộng
đồng dân tộc chiếm đa số. Dân tộc thiểu số là nhóm người có những sự khác biệt về
- 6-
một phương diện nào đó với cộng đồng người chung trong xã hội. Họ có thể khác
biệt với nhóm người đa số về phương diện ngôn ngữ, văn hóa, khác biệt về nhận
thức và tôn giáo, về hoàn cảnh kinh tế, điều kiện sống và thu nhập... và đi kèm theo
đó là sự khác biệt về phương thức ứng xử của cộng đồng đối với chính họ. [11.655]
Trên thực tế, người thiểu số là những người làm cho ta dễ nhận thấy sự khác
biệt so với cộng đồng. Họ mang những nét mà có thể khi nhìn vào cũng như khi giao
tiếp với họ, người ta có thể nhận thấy ngay sự khác biệt đó khi ta so sánh với những
thành viên khác trong cộng đồng.[11.655]
Dân tộc thiểu số là dân tộc có số dân ít cư trú trong một quốc gia thống nhất có
nhiều dân tộc, trong đó có một dân tộc số đông. Trong các quốc gia có nhiều thành
phần dân tộc, mỗi dân tộc thành viên có hai ý thức: (1) ý thức về tổ quốc mình sinh
sống và (2) ý thức về dân tộc mình. Những dân tộc thiểu số có thể cư trú tập trung
hoặc rải rác, xen kẽ, thường ở những vùng ngoại vi hoặc vùng hẻo lánh, vùng điều
kiện phát triển kinh tế xã hội còn có khó khăn. Vì vậy nhà nước tiến bộ thường thực
hiện chính sách bình đẳng dân tộc nhằm xóa dận những chênh lệch trong việc phát
triển kinh tế, xã hội giữa dân tộc đông người và các dân tộc thiểu số. [11.655]
Trong Điều 4, Nghị định số 05/NĐ-CP, ngày 14/11/2011 của Thủ tướng Chính
phủ về công tác dân tộc, đã định nghĩa “Dân tộc thiểu số” là những dân tộc có số
dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam"; “Vùng dân tộc thiểu số” là địa bàn có đông các dân tộc thiểu số
cùng sinh sống ổn định thành cộng đồng trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam"; “Dân tộc thiểu số rất ít người” là dân tộc có số dân dưới 10.000
người.[21]
* Giáo viên
Giáo viên là chức danh nghề nghiệp của người dạy học trong các trường phổ
thông trường nghề và trường mầm non, đã tốt nghiệp các trường sư phạm, có trình
độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học [9.169]
Điều 70, Luật Giáo dục năm 2005 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật Giáo dục năm 2009 đã nêu: 1) nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo
- 7-
dục trong nhà trường hoặc các cơ sở giáo dục khác; 2) Nhà giáo phải có những tiêu
chuẩn sau đây: a) Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt; b) Đạt trình độ chuẩn được đào
tạo về chuyên môn, nghiệp vụ; c) Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghể nghiệp; d) Lý lịch
bản thân rõ ràng. 3) Nhà giáo dạy ở các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ
thông, giáo dục nghề nghiệp trình độ sơ cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp gọi là
giáo viên. Nhà giáo giảng dạy ở các cơ sở giáo dục đại học, trường cao đẳng gọi là
giảng viên. [20]
Giáo viên là người truyền thụ toàn bộ các kiến thức và kĩ năng qui định trong
chương trình bộ môn của bậc học, cấp học, ngoài ra còn có trách nhiệm phụ đạo học
sinh kém và bồi dưỡng học sinh giỏi, có năng kiếu. Người giáo viên không những
chỉ dạy tốt các kiến thức chuyên môn, mà còn phải chú ý dạy người, bồi dưỡng tư
tưởng, tình cảm đạo đức để học sinh của mình phát triển nhân cách toàn diện.
[9.169]
Người giáo viên giữ vai trò chủ đạo trong mọi hoạt động giáo dục của nhà
trường, là người tổ chức và điều khiển quá trình hình thành nhân cách cho học sinh,
chịu trách nhiệm về công tác giáo dục học sinh trước nhà nước và nhân dân.
Giáo viên tiểu học: Theo điều 33- Điều lệ trường Tiểu học- Giáo viên làm
nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục học sinh trong trường tiểu học và cơ sở giáo dục khác
thực hiện chương trình giáo dục tiểu học.[2]
Người giáo viên tiểu học phụ trách toàn bộ một lớp học, vừa giảng dạy tất cả
các môn học, có khi cả những môn đòi hỏi những năng khiếu chuyên biệt như Âm
nhạc Mĩ thuật ... vừa làm công tác chủ nhiệm. Người giáo viên tiểu học là người dẫn
dắt, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động để đưa học sinh vào thế giới tri thức khoa học,
văn hóa nghệ thuật, giúp học sinh rèn luyện những kĩ năng ứng xử, thỏa mãn nhu cầu
hứng thú trong hoạt động vui chơi, giải trí, thể dục thể thao... Người giáo viên tiểu
học phải thật sự là "nhân vật lí tưởng" của học sinh, là tấm gương cho học sinh noi
theo.
Giáo viên trung học cơ sở: Theo Điều 30, Điều lệ trường trung học cơ sở và
trung học phổ thông thì: Giáo viên trường trung học cơ sở là người làm nhiệm vụ
- 8-
giảng dạy, giáo dục trong trường THCS, gồm: Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, giáo
viên bộ môn, giáo viên làm công tác đoàn thanh niên, giáo viên làm tổng phụ trách
Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, giáo viên làm công tác tư vấn học sinh. [2]
Người giáo viên trung học cơ sở là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục
trong trường THCS. Người giáo viên THCS có thể chỉ làm công tác giảng dạy những
bộ môn khoa học đơn lẻ, giảng dạy một hoặc hai môn học ở một hay nhiều lớp khác
nhau, có thể họ không làm công tác chủ nhiệm lớp. Như vậy nhiệm vụ chủ yếu của
giáo viên trung học cơ sở là làm tốt việc tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh;
giúp học sinh có một hệ thống tri thức khoa học cơ bản, hiện đại, có kĩ năng, thói
quen ứng dụng những tri thức vào cuộc sống, tạo cơ sở cho việc hình thành và phát
triển nhân cách toàn diện cho học sinh.
* Giáo viên người dân tộc thiểu số
Từ những khái niệm đã nêu ở trên ta có thể hiểu, giáo viên người dân tộc thiểu
số là người làm nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục tại các cơ sở giáo dục mầm non, cơ
sở giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp có lí lịch, nguồn gốc là người dân
tộc thiểu số đang sinh sống trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Giáo viên người dân tộc thiểu số cấp tiểu học và trung học cơ sở là giáo
viên người dân tộc thiểu số làm nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục tại các trường tiểu
học và trung học cơ sở hoặc các cơ sở giáo dục có thực hiện chương trình giáo dục
tiểu học, trung học cơ sở.
b) Năng lực, năng lực nghề nghiệp, năng lực dạy học
* Năng lực:
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về năng lực.
Theo Xavier Roegie (1996) thì năng lực là sự tích hợp các kĩ năng tác động một
cách tự nhiên lên các nội dung trong một loạt tình huống cho trước để giải quyết
những vấn đề do tình huống này đặt ra. [6]
( )
1
Theo Từ điển Tiếng Việt thì "Năng lực là phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho
con người khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó với chất lượng cao" [19. 937]
1 Hoàng Phê, chủ biên, NXB KHXH, 1994
- 9-
Theo Từ điển Giáo dục học(2) thì "Năng lực là khả năng được hình thành hoặc
phát triển, cho phép một người đạt được thành công trong một hoạt đông thể lực, trí
lực hoặc nghề nghiệp. [9.278]
Năng lực được thể hiện vào khả năng thi hành một hoạt động, thực hiện một
nhiệm vụ. Năng lực chỉ có hiệu quả khi nó được chứng minh trong trường hợp
ngược lại, nó chỉ là giả định hoặc không có thực. Năng lực có thể bẩm sinh hoặc do
rèn luyện mà chiếm lĩnh được. Nó phát triển bởi kinh nghiệm bởi việc học tập phù
hợp với tính riêng biệt của cá nhân.
Năng lực được coi như khả năng của con người khi đối mặt với những vấn đề
mới và những tình huống mới, gợi tìm lại những tin tức và những kĩ thuật đã được sử
dụng trong những thực nghiệm trước đây.
Tương ứng với hành động sư phạm và giáo dục người ta chia ra: năng lực loại
động cơ thể hiện bởi bản chất và chất lượng của chuyển động; năng lực trí tuệ thể
hiện bởi những cách tiếp cận trí tuệ; năng lực loại thẩm mĩ thể hiện sự nhạy cảm;
năng lực loại cảm xúc.
Khả năng của một con người hoàn thành được những nhiệm vụ phức tạp, việc
hoàn thành này đòi hỏi phải thi hành một số lượng lớn các thao tác đối với những
nhiệm vụ mà người ta thường gặp trong khi thực hành một nghề" [9. 278]
Theo Nguyễn Công Khanh (2015) năng lực là khả năng làm chủ những hệ
thống, kiến thức, kỹ năng, thái độ và vận hành (kết nối) chúng một các hợp lý và
thực hiện thành công nhiệm vụ hoặc giải quyết hiệu quả vấn đề đặt ra của cuộc sống.
Năng lực là một cấu trúc động, có tính mở, đa thành tố, đa tầng bậc hàm chứa trong
đó không chỉ là kiến thức, kỹ năng, thái độ mà cả niềm tin, giá trị, trách nhiệm xã hội
thể hiện tính sẵn sàng hành động trong những điều kiện thực tế và hoàn cảnh thay
đổi. Năng lực của người học là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kỹ năng,
thái độ... phù hợp với lứa tuổi và vận hành chúng một các hợp lý vào thực hiện thành
công nhiệm vụ học tập, giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra cho chính người học
trong cuộc sống. [6.7]
2 Bùi Hiền, chủ biên, NXB Từ điển bách khoa, 2001
- 10-
Năng lực là khả năng huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc
tính tâm lí cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí... để thực hiện thành công một
loại công việc trong một bối cảnh nhất định [6.7]
Như vậy, dù phát biểu bằng cách này hay cách khác, các nhà nghiên cứu đều
gặp nhau ở điểm chung khi đưa ra các quan niệm về năng lực, đó là: Năng lực là khả
năng thực hiện; khả năng làm chủ kiến thức, kĩ năng và đặc điểm nhân cách cá nhân
để giải quyết một công việc nào đó của bản thân.
* Năng lực nghề nghiệp:
Theo Từ điển Giáo dục học thì "Năng lực nghề nghiệp là khả năng thực hiện có
hiệu quả một nghề, một chức năng hoặc một số nhiệm vụ chuyên biệt với sự thành
thạo cần thiết. Tùy theo tính chất của công việc có tính nghề nghiêp chuyên môn như
đã nêu, năng lực nghề nghiệp có thể là: năng lực tiến hành độc lập công tác nghiên
cứu khoa học và sáng tạo trong công tác chuyên môn, năng lực thực hiện công tác
chuyên môn và nghiên cứu khoa học trong chuyên ngành của minh hay năng lực vận
dụng lí thuyết vào công tác chuyên môn". [9. 279]
Năng lực nghề nghiệp là khả năng thực hiện, giải quyết công việc thuộc về
ngành nghề nào đó; là kĩ năng chuyên môn, là khối kiến thức mà cá nhân tích lũy
được để giải quyết tốt công việc trong lĩnh vực nghề nghiệp mà anh ta lựa chọn và
thực hiện.
Giáo viên là một nghề. Năng lực nghề nghiệp của người giáo viên là khả năng
thực hiện hoạt động dạy học, khả năng giáo dục học sinh. Những năng lực này sẽ
được bộc lộ và khẳng định trong quá trình thực tiễn hoạt động giáo dục.
* Năng lực dạy học:
Năng lực dạy học là phẩm chất tâm lí, sinh lí của người giáo viên tạo cho họ
khả năng tổ chức các hoạt động dạy học, tổ chức rèn luyện kĩ năng một cách có hệ
thống, có phương pháp nhằm nâng cao trình độ, phẩm chất đạo đức của người học
theo một chương trình nhất định.
Năng lực dạy học là khả năng truyền lại những tri thức, kinh nghiệm đưa đến
những thông tin khoa học cho người khác tiếp thu một cách có hệ thống, có phương
- 11-
pháp nhằm mục đích tự nâng cao trình độ văn hóa, năng lực trí tuệ và kĩ năng thực
hành trong đời sống thực tế. [9. 279]
1.3. Hệ thống các năng lực dạy học của người giáo viên
a) Hệ thống năng lực của giáo viên:
* Năng lực xây dựng kế hoạch dạy học:
Được thể hiện qua các khả năng sau:
- Xây dựng kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp dạy học với giáo dục.
- Xây dựng kế hoạch bài học thể hiện rõ mục tiêu, nội dung phương pháp dạy
học phù hợp với đặc thù môn học, đặc điểm học sinh và môi trường giáo dục.
- Xây dựng kế hoạch dạy học phối hợp hoạt động học với hoạt động dạy, thể
hiện sự thống nhất giữa dạy và học, giữa dạy học với giáo dục, phát huy tính tích cực
nhận thức của học sinh.
- Xây dựng kế hoạch dạy học phân hóa phù hợp với các đối tượng khác nhau,
dự kiến được các tình huống sư phạm có thể xảy ra và cách xử lí.
* Năng lực đảm bảo kiến thức môn học:
- Làm chủ kiến thức môn học, nắm vững nội dung kiến thức môn học theo
chương trình lớp dạy và cả cấp học, đảm bảo nội dung dạy học chính xác, có hệ
thống.
- Có khả năng giảng dạy các đối tượng học sinh có trình độ khác nhau cũng như
học sinh có hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt.
* Năng lực đảm bảo chương trình môn học:
- Đảm bảo dạy học đúng theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và yêu cầu về thái độ
được qui định trong chương trình môn học.
- Thực hiện đúng, đầy đủ và linh hoạt, sáng tạo kế hoạch dạy học đã thiết kế
đảm bảo yêu cầu về phân hóa.
* Năng lực vận dụng các phương pháp dạy học:
- Vận dụng hợp lí, linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh.
- 12-
- Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực phát triển năng lực tự học và tư
duy của học sinh.
- Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học theo hướng phân hóa.
* Năng lực sử dụng phương tiện dạy học:
- Sử dụng hợp lý các phương tiện dạy học quy định trong chương trình môn
học.
- Kết hợp sử dụng hợp lý các phương tiện dạy học truyền thống và phương tiện
dạy học hiện đại (máy tính, mạng Internet và các phương tiện dạy học khác) làm
tăng hiệu quả dạy học.
- Cải tiến phương tiện dạy học và sáng tạo những phương tiện dạy học mới.
* Năng lực xây dựng môi trường học tập:
- Tạo bầu không khí học tập thân thiện, lành mạnh, không khí hăng say học tập,
lôi cuốn học sinh tham gia vào các hoạt động học tập.
- Xây dựng, khai thác không gian lớp học, công cụ lớp học tiết kiệm, hiệu quả
trong tương tác với học sinh.
- Tôn trọng ý kiến của học sinh, đảm bảo điều kiện học tập an toàn.
* Năng lực quản lí hồ sơ dạy học:
- Xây dựng được hồ sơ dạy học theo đúng quy định.
- Các tài liệu, tư liệu trong hồ sơ dạy học được sắp xếp khoa học và dễ sử dụng.
Thường xuyên bổ sung tư liệu dạy học.
- Ứng dụng công nghệ thông tin vào việc xây dựng, lưu giữ hồ sơ phục vụ việc
dạy học.
* Năng lực kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh:
- Vận dụng chuẩn kiến thức kỹ năng của môn học để thực hiện việc kiểm tra
đánh giá kết quả học tập của học sinh theo qui định.
- Lựa chọn các phương pháp, hình thức kiểm tra đánh giá phù hợp.
- Đảm bảo tính công khai, khách quan, chính xác và công bằng trong kiểm tra
đánh giá.
- 13-
- Biết sử dụng kết quả kiểm tra, đánh giá để điều chỉnh hoạt động dạy học và
phát triển năng lực tự đánh giá của bản thân.
* Năng lực giáo dục qua môn học:
- Khai thác được nội dung bài học, liên hệ với thực tế cuộc sống để giáo dục tư
tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh.
- Khai thác được những trải nghiệm của học sinh từ cuộc sống, vốn kinh
nghiệm sẵn có để liên hệ, khai thác bài học.
* Năng lực truyền thông:
- Thể hiện khả năng diễn đạt ngôn ngữ chính xác, khoa học, lôi cuốn, thuyết
phục học sinh học tập; xử lí nhanh, hợp lí các tính huống có vấn đề trong giờ học.
b) Chuẩn năng lực giáo viên tiểu học:
Theo Quyết định số: 14/2007/QĐ-BGDĐT về việc Ban hành Chuẩn nghề
nghiệp giáo viên tiểu học, theo đó tiêu chí của chuẩn năng lực được xác định như
sau:
(1) Nắm vững mục tiêu, nội dung cơ bản của chương trình, sách giáo khoa của
các môn học được phân công giảng dạy.
(2) Có kiến thức chuyên sâu, đồng thời có khả năng hệ thống hóa kiến thức
trong cấp học để nâng cao hiệu quả giảng dạy đối với các môn học được phân công
giảng dạy.
(3) Kiến thức cơ bản trong các tiết dạy đảm bảo đủ, chính xác, có hệ thống.
(4) Thực hiện việc kiểm tra đánh giá, xếp loại học sinh chính xác, mang tính
giáo dục và đúng qui định.
(5) Có khả năng soạn được các đề kiểm tra theo yêu cầu chỉ đạo chuyên môn,
đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học và phù hợp với các đối tượng học sinh.
(6) Xây dựng được kế hoạch giảng dạy cả năm học, kế hoạch tháng, kế hoạch
tuần thể hiện các hoạt động dạy học nhằm cụ thể hóa chương trình của Bộ phù hợp
với đặc điểm của nhà trường và lớp được phân công giảng dạy.
- 14-
(7) Soạn giáo án theo hướng đổi mới, thể hiện các hoạt động dạy học tích cực
của thày và trò (soạn giáo án đầy đủ với môn học dạy lần đầu, sử dụng giáo án có
điều chỉnh theo kinh nghiệm theo một năm giảng dạy).
(8) Lựa chọn và sử dụng hợp lí các phương pháp dạy học theo hướng phát huy
tính sáng tạo, chủ động trong việc học tập của học sinh; làm chủ được lớp học; xây
dựng môi trường học tập hợp tác, thân thiện, tạo sự tự tin cho học sinh; hướng dẫn
học sinh tự học.
(9) Đặt câu hỏi kiểm tra phù hợp đối tượng và phát huy được năng lực học tập
của học sinh, chấm, chữa bài kiểm tra một cách cẩn thận để giúp học sinh học tập
tiến bộ.
(10) Có sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học, kể cả đồ dùng dạy học tự làm; biết
khai thác các điều kiện có sẵn để phục vụ giờ dạy, hoặc có ứng dụng phần mềm dạy
học, hoặc làm đồ dung dạy học có giá trị thực tiễn cao.
(11) Lời nói rõ ràng, mạch lạc, không nói ngọng khi giảng dạy và giao tiếp
trong phạm vi nhà trường; viết chữ đúng mẫu; biết cách hướng dẫn học sinh ghi vở
sạch, chữ đẹp.
(12) Lập đủ hồ sơ quản lí quá trình học tập, rèn luyện của học sinh; bảo quản
tốt các bài kiểm tra của học sinh.
(13) Lưu trữ tốt hồ sơ giảng dạy bao gồm giáo án, các tư liệu, tài liệu tham
khảo thiết thực liên quan đến giảng dạy các môn học được phân công giảng dạy.
c) Chuẩn năng lực dạy học của giáo viên Trung học:
Chuẩn năng lực dạy học của giáo viên trung học được ban hành kèm theo
Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT ngày 22/10/2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo, gồm các tiêu chuẩn sau:
(1) Xây dựng kế hoạch dạy học: Người giáo viên phải có năng lực xây dựng kế
hoạch dạy học theo hướng tích hợp dạy học với giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội
dung, phương pháp dạy học phù hợp với đặc thù môn học, đặc điểm học sinh và môi
trường giáo dục; phối hợp hoạt động học với hoạt động dạy theo hướng phát huy tính
tích cực nhận thức của học sinh.
- 15-
(2) Đảm bảo kiến thức môn học: Làm chủ kiến thức môn học, đảm bảo nội
dung dạy học chính xác, có hệ thống, vận dụng hợp lý các kiến thức liên môn theo
yêu cầu cơ bản, hiện đại, thực tiễn.
(3) Đảm bảo chương trình môn học: Thực hiện nội dung dạy học theo chuẩn
kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ được quy định trong chương trình môn
học.
(4) Vận dụng các phương pháp môn học: Vận dụng các phương pháp dạy học
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, phát triển
năng lực tự học và tư duy của học sinh.
(5) Sử dụng các phương tiện dạy học: Sử dụng các phương tiện dạy học làm
tăng hiệu quả dạy học.
(6) Xây dựng môi trường học tập: Tạo dựng môi trường học tập: dân chủ, thân
thiện, hợp tác, cộng tác, thuận lợi, an toàn và lành mạnh.
(7) Quản lý hồ sơ dạy học: Xây dựng, bảo quản, sử dụng hồ sơ dạy học theo
quy định.
(8) Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh: Kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập của học sinh bảo đảm yêu cầu chính xác, toàn diện, công bằng, khách quan,
công khai và phát triển năng lực tự đánh giá của học sinh; sử dụng kết quả kiểm tra
đánh giá để điều chỉnh hoạt động dạy và học.
1.4. Vai trò của đội ngũ giáo viên tiểu học và trung học cơ sở và của các trường
cao đẳng sư phạm trong việc đào tạo và bồi dưỡng nâng cao năng lực dạy học
cho đội ngũ giáo viên tiểu học và THCS
a) Vai trò của đội ngũ giáo viên tiểu học và trung học cơ sở:
- Vai trò "người thiết kế": Cũng như các bậc học khác, người giáo viên tiểu học
và trung học cơ sở trước hết là người thiết kế, xây dựng nội dung các hoạt động
giảng dạy, giáo dục trong lớp học, vai trò thiết kế các hoạt động dạy học được dựa
trên các năng lực: nắm bắt mục tiêu, chọn lọc nội dung, xây dựng tiến trình hoạt
động, phối hợp sử dụng các phương pháp dạy học, các đồ dùng, phương tiện thiết bị
dạy học...
- 16-
- Vai trò "người tổ chức": Lớp học là một cộng đồng xã hội thu nhỏ có tổ chức
mà người giáo viên phải có trách nhiệm tổ chức các hoạt động để các thành viên
trong lớp học hợp tác với nhau trên cơ sở mỗi thành viên tham gia tự giác và phát
huy được đầy đủ năng lực và trách nhiệm của mình trong các hoạt động giáo dục.
- Vai trò "người cổ vũ, lãnh đạo": Vai trò này đòi hỏi người giáo viên phải
nhanh chóng nhận biết, chia sẻ những giải pháp hay, sáng tạo của học sinh bằng thái
độ cởi mở, trân trọng, trìu mến và khích lệ. Để phát huy được sự tư duy sáng tạo của
học sinh, người giáo viên chỉ can thiệp khi thực sự cần thiết, còn lại chủ yếu là uốn
nắn, điều chỉnh để học sinh chủ động, tự giác tham gia vào các hoạt động.
- Vai trò "người đánh giá": Để làm được vai trò "người đánh giá", người giáo
viên cần phải có đầy đủ năng lực, trình độ chuyên môn để chỉ ra được cái độc đáo,
đánh giá được những giá trị thực sự, những sản phẩm sáng tạo của học sinh để có thể
xác định được mức độ kiến thức và kĩ năng mà học sinh đã thu nhận được để từ đó
điều chỉnh, kích thích các hoạt động dạy và học.
Thông qua vai trò của người giáo viên, các nhà trường đã đem lại cho học sinh
sự say mê học tập, hình thành những khả năng tự học, tự giáo dục. Kinh nghiệm từ
cổ xưa và từ các thành tựu to lớn của nền giáo dục hiện đại cho thấy không gì có thể
thay thế được mối quan hệ thầy, trò dựa trên tinh thần trách nhiệm và uy tín sư phạm
cao của người thầy.
Với tư cách là "Người giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng
giáo dục" (3) người giáo viên tiểu học và trung học cơ sở không chỉ trang bị cho mình
các kiến thức, kĩ năng sư phạm trong phạm vi chuyên môn hẹp mà còn phải thường
xuyên cập nhật, tự học, tự bồi dưỡng để có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển ngày
càng cao của sự nghiệp giáo dục.
b) Vai trò của các trường cao đẳng sư phạm trong việc đào tạo và bồi
dưỡng nâng cao năng lực dạy học cho đội ngũ giáo viên tiểu học và THCS
Cùng với hệ thống các trường sư phạm, trường cao đẳng sư phạm có trách
nhiệm to lớn trong việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên tiểu học, trung học cơ sở có đầy
3 Điều 15, Luật Giáo dục năm 2005
- 17-
đủ phẩm chất đạo đức; kiến thức, tri thức khoa học; kĩ năng sư phạm; năng lực dạy
học và lí tưởng nghệ nghiệp. Trường sư phạm có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với
hệ thống các trường tiểu học, trung học cơ sở trong hệ thống giáo dục quốc dân.
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực dạy học và phát triển năng lực dạy của
giáo viên người dân tộc thiểu số cấp TH và THCS khu vực miền núi
a) Điều kiện kinh tế-xã hội:
Sự phát triển kinh tế-xã hội đã tạo tiền đề, đồng thời cũng tác động đến sự phát
triển văn hoá, giáo dục, trong đó có cả sự ảnh hưởng đến việc dạy học và năng lực
dạy học của đội ngũ giáo viên nói chung, giáo viên người dân tộc thiểu số nói riêng,
cả mặt thuận lợi cũng như mặt khó khăn. Đường xá đi lại thuận lợi, đồng lương được
cải thiện … đây chính là điều kiện cơ bản để đội ngũ giáo viên phát huy được tinh
thần trách nhiệm, cũng như hoàn thiện được năng lực dạy học của mình. Bên cạnh
đó, trong bối cảnh suy thoái kinh tế thế giới, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế-xã
hội của các địa phương, cùng với việc tồn tại một số mặt yếu kém trong nội bộ sự
phát triển kinh tế-xã hội cũng sẽ là nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ
giáo viên, trong đó có đội ngũ giáo viên người dân tộc thiểu số cấp TH và THCS.
b) Về các đặc trưng văn hoá:
Đặc trưng văn hoá được các dân tộc sáng tạo nên trong quá trình phát triển lịch
sử của mình và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sự tổng hoà các mối liên
hệ giữa các đặc trưng văn hoá tạo thành “truyền thống tộc người”. Những truyền
thống văn hoá này được hình thành trong các giai đoạn khác nhau, trong mối liên hệ
với các điều kiện kinh tế-xã hội và địa lý tự nhiên trong cuộc sống của mỗi dân tộc,
kể cả ngày nay khi điều kiện sống của mỗi dân tộc đã có sự thay đổi lớn, nhưng
những đặc trưng của truyền thống văn hoá vẫn tiếp tục tồn tại, phát triển.
Bên cạnh sự ảnh hưởng, tác động của các yếu tố văn hoá hiện đại, từ bên ngoài
thì các dân tộc vẫn bảo lưu truyền thống văn hoá, sinh hoạt truyền thống, thậm chí cả
những mặt tiêu cực của nó vẫn có thể tác động đến hoạt động của cộng đồng dân cư
nói chung, đến hoạt động giáo dục nói riêng. Do đó, là giáo viên sinh ra từ một dân
tộc (Thái; Tày; H Mông…) thì việc chịu ảnh hưởng và mang đặc trưng văn hoá của
dân tộc mình là lẽ đương nhiên.
- 18-
c) Về quản lý, điều hành và chính sách đãi ngộ:
Không thể phủ nhận vai trò quản lý (BGH, Hiệu trưởng, hiệu phó) ở các trường
phổ thôngtrong việc phát triển đội ngũ giáo viên. Nếu một trường mà BGH biết tổ
chức điều hành hoạt động nhà trường một cách khoa học; biết động viên khích lệ,
quan tâm và tạo điều kiện cho CBGV làm việc, phấn đấu rèn luyện thì một điều chắc
chắn rằng nhà trường đó sẽ phát triển tốt và ngược lại.
Không ít những giáo viên trong đó có giáo viên người dân tộc thiểu số, trong
quá trình công tác ở một trường nào đó, khi được quan tâm đúng mức của lãnh đạo
nhà trường đã trưởng thành nhanh chóng. Điều này cho phép chúng ta có đủ cơ sở để
khẳng định vai trò quan trọng của công tác quản lý, điều hành có ảnh hướng lớp đến
năng lực dạy học của giáo viên.
Bên cạnh yếu tố quản lý, điều hành thì yếu tố chính sách, đãi ngộ về quyền lợi
cũng là một nhân tố tác động đến đội ngũ giáo viên và năng lực dạy học của họ.
Đồng lương thấp, đồng tiền mất giá, giá cả thị trường tăng vọt, bấp bênh… khiến cho
nhiều giáo viên đời sống khó khăn, những yếu tố này cũng sẽ ảnh hưởng đến giáo
viên và năng lực dạy học của họ.
d) Về phía người học:
Qua nhiều nghiên cứu về giáo dục học cho thấy, đối tượng dạy học (học sinh)
cũng là một nhân tố tác động đến hiệu quả dạy học và khả năng sáng tạo của người
dạy (giáo viên).
Một điều đáng nói, chính đối tượng học sinh sẽ là lý do “buộc” người giáo viên
phải có cố gắng hay không. Nếu vào dạy một lớp học học sinh rất tích cực học bài,
tích cực phát biểu, trao đổi, ham hiểu biết thì buộc người giáo viên khi chuẩn bị bài
học cần phải đầu tư công sức trí tuệ để đáp ứng yêu cầu ham hiểu biết của học sinh.
Qua đó mà trình độ chuyên môn và năng lực day học người giáo viên được nhanh
chóng nâng cao và ngược lại. Vấn đề cần tháo gỡ ở đây, chính là đỏi hỏi lòng nhiệt
tình, tâm huyết, lương tâm trách nhiệm của người thầy. Nhất là những thầy cô giáo
người dân tộc thiểu số, lại được công tác giảng dạy ngay chính trên quê hương của
- 19-
mình, lòng yêu quê hương bản làng của mình sẽ giúp họ vượt qua khó khăn, chắp
cánh cho họ vươn lên trong sự nghiệp trồng người.
Tóm lại: Nội dung 1 dành cho việc cho việc trình bày tổng quan về lịch sử
nghiên cứu vấn đề và những vấn đề lí luận liên quan cần thiết cho việc triển khai
công trình nghiên cứu. Các khái niệm cơ bản liên quan đến công trình đã được làm
rõ là: Khái niệm người dân tộc thiểu số, giáo viên, giáo viên tiểu học, giáo viên trung
học cơ sở, giáo viên người dân tộc thiểu số cấp tiểu học và trung học cơ sở, năng
lực, năng lực nghề nghiệp, năng lực dạy học.
Những vấn đề quan trọng khác liên quan đến công trình nghiên cứu cũng được
đề cập và luận giải: hệ thống các năng lực dạy học của giáo viên; chuẩn giáo viên
tiểu học và năng lực dạy học của giáo viên tiểu học; chuẩn giáo viên trung học cơ sở
và năng lực dạy học của giáo viên trung học cơ sở; các minh chứng và bộ tiêu chí để
đánh giá năng lực dạy học của giáo viên tiểu học và trung học cơ sở; các yếu tố ảnh
hưởng đến năng lực dạy học của giáo viên người dân tộc thiểu số cấp tiểu học và
trung học cơ sở ở khu vực miền núi.
Những vấn đề trình bày ở nội dung 1 là cơ sở lí luận để triển khai những nội
dung liên quan ở các chuyên đề tiếp theo.
- 20-
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nâng cao năng lực dạy học cho giáo viên Tiểu học và Trung học Cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- de_tai_co_so_ly_luan_cua_van_de_nang_cao_nang_luc_day_hoc_ch.doc