Áp dụng nghiên cứu định tính cho các nghiên cứu trong lĩnh vực quản trị - Lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ QUẢN LÝ KINH TẾ
ÁP DỤNG NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH
CHO CÁC NGHIÊN CỨU TRONG LĨNH VỰC QUẢN TRỊ
- LÝ THUYẾT VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
Cao Quốc Việt1, Nguyễn Thị Bích Châm2
Bạch Ngọc Hoàng Ánh3
TÓM TẮT
Xuất phát từ những khó khăn của học viên khi
thực hiện phương pháp nghiên cứu định tính trong
các luận văn, luận án và các công trình nghiên cứu
khoa học; bài viết này giới thiệu nghiên cứu định tính
và các phương pháp chính để áp dụng trong các công
trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực quản trị. Bài
viết trình bày các bước thực hiện một nghiên cứu định
tính áp dụng hướng tiếp cận “lý thuyết nổi lên từ dữ
liệu - grounded theory”. Đây là hướng tiếp cận phổ
biến được các nhà nghiên cứu sử dụng để khám phá
và điều chỉnh mô hình nghiên cứu đề xuất.
Title: Using qualitative research to
study in the field of management:
from theory to practical experience
Từ khóa: Nghiên cứu định tính, lý
thuyết nổi lên từ dữ liệu, grounded
theory
Keywords: Qualitative research,
qualitative research
Lịch sử bài báo:
ABSTRACT
Ngày nhận bài: 25/11/2020;
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
2/12/2020;
Based on students' difficulties when performing
qualitative research methods in dissertations, theses
as well as research papers; our article introduces
qualitative research and main methods to apply in
research related to management. The paper presents
steps for conducting a qualitative research, using the
approach called ‘’grounded theory”. This is a common
approach, used by researchers in order to explore and
adjust the proposed research model.
Ngày chấp nhận đăng bài: 10/12/2020.
Tác giả:
1,2 Trường Đại học Kinh tế TP. HCM
3 Trường Đại học Yersin Đà Lạt.
Email: hoanganhbachngoc@yahoo.com
I. Đặt vấn đề
chưa từng thực hiện một cuộc phỏng vấn sâu
hay thảo luận nhóm nào. Một số học viên
chưa biết tại sao phải thực hiện nghiên cứu
định tính, chưa biết qui trình xử lý dữ liệu
định tính, không thể giải thích vì sao có được
số lượng mẫu thu thập như đã báo cáo. Vì
vậy kết quả nghiên cứu định tính không dựa
trên dữ liệu đáng tin cậy và giá trị. Một số bài
báo công bố trong nước cũng trình bày kết
quả nghiên cứu định tính khá sơ sài.
1. Giới thiệu chung
Nghiên cứu định tính xuất hiện khá
thường xuyên trong các luận văn thạc sĩ,
luận án tiến sĩ và cả các bài báo công bố trên
tạp chí khoa học trong nước thời gian qua.
Các kết quả nghiên cứu định tính xuất hiện
theo một qui trình lặp lại gần như giống nhau
giữa các nghiên cứu. Một số học viên chưa
biết cách thực hiện nghiên cứu định tính,
Tập 8 (12/2020)
3
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ QUẢN LÝ KINH TẾ
Với mục đích giúp người đọc hiểu thấu
hiểu vấn đề của con người và xã hội thông
qua các nhóm và các cá nhân. Theo Creswell
(2007), năm hướng tiếp cận trong nghiên
cứu định tính đó là: Nghiên cứu tường thuật
(Narrative research); Hiện tượng học
đáo hơn vấn đề này, trong các nội dung tiếp
theo, hệ thống các phương pháp nghiên cứu
sẽ được trình bày sơ lược bao gồm phân biệt
nghiên cứu định tính và định lượng; năm
hướng tiếp cận trong nghiên cứu định tính.
Phần trọng tâm của bài viết nằm ở phần áp
dụng phương pháp GT theo trường phái
Straussian để xây dựng và phát triển mô
hình lý thuyết cho nghiên cứu định lượng.
(Phenomenology);
Dân
tộc
học
(Ethnography); Nghiên cứu tình huống
(Case Study) và Lý thuyết “từ dữ liệu”
(Grounded Theory). Một hướng tiếp cận mới
trong nghiên cứu định tính có tên gọi
Netnography do (Kozinets, 2002, 2010,
2015) đề xuất và sáng lập.
2.Hệthốngcácphươngphápnghiêncứu
Nghiên cứu định lượng và nghiên
cứu định tính
Hướng tiếp cận theo nghiên cứu tường
thuật "bắt đầu với những trải nghiệm đã
diễn ra trong cuộc sống và những câu
chuyện được kể bởi các nhân vật" (Creswell
2007, tr.54). Hướng tiếp cận này, theo
Creswell, được xuất phát từ các lĩnh vực
như văn chương, lịch sử, nhân loại học
(anthropology), xã hội học, ngôn ngữ xã hội
học (sociolinguistics), giáo dục học và tâm lý
học). Hướng thứ hai nghiên cứu hiện tượng
học là dạng tổng quát hơn của nghiên cứu
tường thuật. Những kinh nghiệm sống của
nhiều cá nhân được mô tả dưới một "khái
niệm" hay một “hiện tượng”; mục đích của
nhà hiện tượng học là mô tả hiện tượng ở
mức độ tổng quát so với từng trải nghiệm
của cá nhân riêng lẽ; nghiên cứu hiện tượng
học rất phổ biến trong các ngành khoa học
xã hội, khoa học sức khỏe, xã hội học, tâm lý
học, giáo dục học (Creswell, 2007). Nghiên
cứu dân tộc học là hướng tiếp cận thứ ba
trong nghiên cứu định tính. Theo hướng
tiếp cận này "nhà nghiên cứu mô tả và diễn
giải các kiểu mẫu giá trị đã được học hỏi và
Nghiên cứu định lượng đứng trên nền
tảng của phương pháp suy diễn (deductive)1
trong phương pháp nghiên cứu khoa học.
Chính vì vậy, “nghiên cứu định lượng
thường được dùng để kiểm định lý thuyết
khoa học”(Nguyễn Đình Thọ, 2013, tr.134)
hoặc “kiểm định các lý thuyết mục tiêu thông
qua việc xác định mối quan hệ giữa các
biến…” (Creswell, 2009, tr.4). Nghiên cứu
định lượng sẽ và chỉ được thực hiện nếu
như lý thuyết khoa học vừa được khám phá,
đề xuất hoặc lý thuyết còn nhiều tranh luận
(còn nhiều kết quả mâu thuẫn, không đồng
thuận) giữa các nhà nghiên cứu khác nhau;
ngoài ra lý thuyết cần kiểm định phải gắn
liền với thực tiễn thị trường (các vấn đề
đang nổi lên từ thị trường cần nghiên cứu).
Ngược lại, nghiên cứu định tính đứng
trên nền tảng của qui trình qui nạp
(inductive) trong phương pháp nghiên cứu
khoa học. Creswell (2009) cho rằng nghiên
cứu định tính mang ý nghĩa khám phá, tìm
1 Để hiểu rõ hơn về qui trình suy diễn và qui
nạp, độc giả nên đọc thêm: Nguyễn Đình Thọ.,
2013. Giáo trình Phương pháp nghiên cứu khoa
học trong kinh doanh tái bản lần 2., Hồ Chí Minh:
NXB. Tài Chính
Hoặc Creswell, J., 2007. Qualitative inquiry
and research design: Choosing among five
approaches 2nd ed., Thousand Oaks, CA: Sage
Tập 8 (12/2020)
4
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ QUẢN LÝ KINH TẾ
chia sẻ, các hành vi, các niềm tin và ngôn ngữ
Theo Cooney (2010), có hai hướng
tiếp cận phương pháp GT. Theo hướng
nguyên thủy (pure grounded theory),
những người theo đuổi trường phái này sẽ
tiếp cận các nguồn thông tin (dữ liệu), khai
phá nó và xây dựng lý thuyết mà không để
một lý thuyết nào trước đó dẫn dắt và “lý
thuyết sẽ nổi lên từ quá trình thu thập và
phân tích dữ liệu” (Saunders & cộng sự.
2009, tr.521). Đây chính là hướng tiếp cận
định tính theo trường phái Glaserian. Nếu
như năm 1967, cả Glaser và Strauss cùng
nói lên vai trò không quan trọng của lý
thuyết khi thực hiện nghiên cứu định tính
thì sau đó hai mươi năm, Strauss (1987),
Heath (2006) lại cho rằng lý thuyết đóng
một vai trò rất quan trọng trong nghiên
cứu định tính. Điều này có nghĩa là nhà
nghiên cứu phải tổng hợp thật kỹ, thật sâu
lý thuyết trước khi thực hiện nghiên cứu
định tính.
của một nhóm người cùng chia sẻ chung một
nền văn hóa” (Harris, 1968 dẫn từ Creswell,
2007, tr.68). Nhà dân tộc học sẽ tìm hiểu ý
nghĩa của hành vi, ngôn ngữ, và mối tương
tác giữa các cá nhân trong nhóm văn hóa
này; dân tộc học được sử dụng trong lĩnh
vực nhân loại học (anthropology), xã hội
học. Nghiên cứu tình huống (case study) là
dạng thứ 4 trong nghiên cứu định tính mà
nhà nghiên cứu khám phá (vấn đề) ở một
hay một số trường hợp thông qua quan sát,
phỏng vấn, các tài liệu và các báo cáo
(Creswell 2007, Dul
&
Hak 2008,
Eisenhardt 1989). Nghiên cứu tình huống
được áp dụng phổ biến trong các lĩnh vực
như tâm lý học, dược, luật, khoa học chính
trị, giáo dục học (Creswell, 2007), quản trị
(Dul & Hak, 2008), marketing (Woodside,
2010), kinh doanh và kinh tế học (Yin,
2003). Ngoài mục đích xây dựng lý thuyết,
nghiên cứu tình huống còn được sử dụng để
kiểm định lý thuyết (Eisenhardt, 1989).
Theo tổng kết của Nguyễn Văn
Thắng, (2013, tr.117), nghiên cứu định
tính có thể có bốn mục tiêu chính: Mục tiêu
thứ nhất là “xây dựng lý thuyết – mô hình”,
mục tiêu thứ hai “giúp hiểu sâu hơn bản
chất vấn đề”, mục tiêu số ba “giúp kiểm
định sơ bộ sự phù hợp của mô hình
và/hoặc thước (thang) đo” và mục tiêu
cuối cùng “giải thích cho các kết quả
nghiên cứu định lượng”. Những nhà
nghiên cứu hàn lâm thuần túy hoặc loại III
muốn xây dựng một lý thuyết mới, chưa có
ai từng thực hiện có thể sẽ theo đuổi mục
tiêu thứ nhất, thứ hai và họ có thể chọn lựa
trường phái Glasserian hoặc Straussian.
Mục tiêu số ba sẽ hỗ trợ tốt cho các nghiên
cứu lặp lại loại I và II. Cuối cùng, nghiên
cứu định tính còn có mục tiêu “giải thích
cho kết quả của nghiên cứu định lượng”.
Cuối cùng là hướng tiếp cận “lý thuyết
nổi lên từ dữ liệu” (Grounded Theory, GT)
trong nghiên cứu định tính. Đây là hướng
tiếp cận được trình bày chi tiết ở bài báo cáo
này. Hướng tiếp cận GT được sử dụng phổ
biến trong các lĩnh vực như xã hội học
(Glaser & Strauss, 2006); tâm lý học, giáo
dục học (J. Creswell, 2007); kinh doanh và
marketing (Goulding 2002, 2005). Nhà
nghiên cứu tiếp cận hướng GT sẽ khám phá
các vấn đề đang tồn tại trong lĩnh vực của
họ. Chính những vấn đề này một khi được
khai phá sẽ “chuyển hóa” thành lý thuyết
dưới “tư duy” của các nhà khoa học. Đây
cũng chính là quan điểm “lý thuyết được xây
dựng từ dữ liệu” do hai nhà xã hội học
Glaser và Strauss đặt nền móng.
Tập 8 (12/2020)
5
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ QUẢN LÝ KINH TẾ
II. Quy trình nghiên cứu định tính sử
dụng phương pháp GT
Nếu nhà nghiên cứu chưa có kinh
nghiệm nghiên cứu định tính, cách tốt nhất
là chuẩn bị trước bảng câu hỏi xoay quanh
chủ đề nghiên cứu và nội dung phải tương
đồng cũng như bám sát câu hỏi nghiên cứu.
Sau đó, tùy trong từng tình huống mà nhà
nghiên cứu có thể khai thác sâu hơn người
được phỏng vấn. Trong nhiều trường hợp,
nhà nghiên cứu muốn thảo luận với nhóm
phỏng vấn về sự rõ ràng của các thang đo có
sẵn (trường hợp nghiên cứu lặp lại sử dụng
các thang đo đã có trên các thị trường khác).
Nhà nghiên cứu nên chuẩn bị thêm một
bảng hỏi bao gồm các thang đo để người
được phỏng vấn đọc và cho nhận xét của họ.
2.1 Bước 1: Chuẩn bị
- Xác định mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi
nghiên cứu
- Xác định các cơ sở lý thuyết phù hợp
- Xây dựng bảng câu hỏi bán cấu
trúc/cấu trúc
Trong bước 1, nhà nghiên cứu trước
hết phải xác định mục tiêu nghiên cứu của
mình. Nếu nhà nghiên cứu muốn đi từ dữ
liệu để xây dựng một lý thuyết mới, mục
tiêu số 1 (xây dựng mô hình, giả thuyết) có
thể vận dụng trong trường hợp này. Nếu
nhà nghiên cứu muốn thực hiện nghiên cứu
lặp lại mở rộng, mục tiêu số 1, số 2 và số 3
có thể áp dụng.
2.2 Bước 2: Tiến hành thực hiện
- Lựa chọn kỹ thuật phỏng vấn: Phỏng
vấn tay đôi, thảo luận nhóm
Các dạng mẫu câu hỏi nghiên cứu trong
nghiên cứu định tính thường thể hiện ở
dạng mở với từ khóa bắt đầu bằng Cái gì, Ở
đâu, Như thế nào, Tại sao hoặc Ai. Cái gì,
Như thế nào và Tại sao là ba từ phổ biến
nhất khi đặt câu hỏi nghiên cứu trong
nghiên cứu định tính.
- Xác định đối tượng tham gia
- Dự kiến mẫu tham gia
- Lập kế hoạch phỏng vấn (Thư mời
phỏng vấn, chủ đề, thời gian, địa điểm, ngân
sách…)
- Các công cụ cần thiết (mẫu biểu ghi
chép, máy ghi âm, máy ghi hình), người hỗ trợ
Từ câu hỏi nghiên cứu, nhà nghiên cứu
sẽ chuyển hóa thành câu hỏi điều tra dưới
dạng bảng câu hỏi phỏng vấn/thảo luận
nhóm. Không có bất kỳ định dạng mẫu nào
cho bảng câu hỏi trong nghiên cứu định
tính. Khi tiến hành nghiên cứu định tính,
chúng ta cần phải phỏng vấn đối tượng
tham gia bằng các câu hỏi mở/đóng.
Saunders & cộng sự (2009) cho rằng nhà
nghiên cứu có thể không cần phải chuẩn bị
trước bảng hỏi, khi tiếp xúc với đối tượng
phỏng vấn nhà nghiên cứu sẽ để họ tự do
trả lời về các sự kiện, hành vi hoặc niềm tin
của họ liên quan đến các chủ đề; hoặc nhà
nghiên cứu chuẩn bị trước bảng câu hỏi
nhưng linh hoạt điều chỉnh bổ sung trong
lúc phỏng vấn (đây gọi là bảng câu hỏi bán
cấu trúc – semi questionnaire).
- Thực hiện phỏng vấn và xử lý các tình
huống trong quá trình thực hiện
Việc lựa chọn kỹ thuật phỏng vấn nào
tùy thuộc vào chủ đề nghiên cứu và đối
tượng phỏng vấn. Ví dụ, một nhà nghiên
cứu muốn nghiên cứu chủ đề “khám phá
quá trình xây dựng và hình thành chiến lược
kinh doanh quốc tế của các công ty thủy sản
khu vực đồng bằng sông Cửu long”, đối
tượng phỏng vấn phải là những người chịu
trách nhiệm xây dựng và thực hiện chiến
lược của các công ty. Họ có thể là Tổng giám
đốc hoặc giám đốc phụ trách chiến lược…
Rất khó cho nhà nghiên cứu thực hiện qua
kỹ thuật thảo luận nhóm vì các lý do như các
công ty rất ngại chuyện chia sẻ chiến lược
kinh doanh vì có thể họ đang là đối thủ cạnh
Tập 8 (12/2020)
6
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ QUẢN LÝ KINH TẾ
tranh của nhau, họ cũng không có nhiều
Trong quá trình phỏng vấn, ghi âm, ghi
hình là các công cụ hết sức hữu ích vì nhà
nghiên cứu cần phải chuyển tải các băng ghi
âm, ghi hình sang văn bản để thực hiện mã
hóa và xử lý. Đôi khi, một số đáp viên không
muốn ghi âm cũng như ghi hình, do đó nhà
nghiên cứu cần chuẩn bị phương án thay
thế. Kinh nghiệm là nhà nghiên cứu phải
luyện kỹ năng tốc ký thật tốt để làm thế nào
có thể tóm lược hết các ý mà người được
phỏng vấn trả lời. Một kinh nghiệm nữa là
đôi lúc nhà nghiên cứu phải thuê người hỗ
trợ. Có thể thuê hai, ba người tùy vào ngân
sách nhưng người hỗ trợ phải có kỹ năng
tốc ký thật tốt để lưu lại các thông tin thu
thập vào nhật ký phỏng vấn.
thời gian để nhà nghiên cứu có thể tập hợp
lại một nhóm để thảo luận. Như vậy, cách
thức khả thi hơn là phỏng vấn tay đôi, lúc
này nhà nghiên cứu có thể hẹn gặp riêng ở
văn phòng làm việc của họ để thực hiện
phỏng vấn.
Mẫu trong nghiên cứu định tính là mẫu
phi xác suất, kích cỡ mẫu phụ thuộc vào
trạng thái bão hòa thông tin. Vì vậy, nhà
nghiên cứu không thể biết trước được cần
bao nhiêu đối tượng phỏng vấn cho nghiên
cứu. Điều quan trọng nhất ở đây là làm sao
nhà nghiên cứu có thể biết được điểm “bão
hòa thông tin”. Đây chính là cách thức lấy
mẫu dựa theo lý thuyết (theoretical
sampling). Theo Charmaz (2006, tr.96) “lấy
mẫu theo lý thuyết nghĩa là tìm kiếm dữ liệu
thích hợp để phát triển lý thuyết đang nổi
lên, mục đích chính của lấy mẫu theo lý
thuyết là để xây dựng và hoàn thiện các
“thành phần” cấu thành nên lý thuyết. Bạn
thực hiện lấy mẫu theo lý thuyết để phát
triển các nội dung của các thành phần cho
đến khi không còn nội dung mới nào nổi lên”.
Các “thành phần” ở đây chính là các “khái
niệm”, lý thuyết được xây dựng dựa trên
mối quan hệ giữa các “khái niệm”, như vậy
điểm dừng của thông tin là điểm mà nhà
nghiên cứu nhận thấy không còn nội dung
nào của các khái niệm nổi lên. Ở nội dung
tiếp theo (bước 3) chúng tôi sẽ phân tích
điều này kỹ hơn qua một nghiên cứu cụ thể
của nhóm tác giả (Kim &cộng sự (2009))
Trong nhiều trường hợp, người được
phỏng vấn quá kiệm lời vì có thể chủ đề
nghiên cứu quá nhạy cảm (ví dụ như hỏi
quan điểm của họ về phong cách lãnh đạo
của cấp trên hay về chất lượng cuộc sống
trong công việc…), hoặc người phỏng vấn tỏ
thái độ khó chịu, không hợp tác. Nhà nghiên
cứu cần khéo léo tôn trọng ý kiến của họ,
không được ép buộc họ phải hoàn thành
cuộc phỏng vấn.
3.3 Bước 3: Phân tích dữ liệu và tổng
hợp kết quả
Bước này diễn ra thông qua các nội
dung chi tiết như sau:
- Văn bản hóa các nội dung phỏng vấn
hoặc thảo luận;
Trước khi thực hiện phỏng vấn, một kế
hoạch phỏng vấn chi tiết là điều hết sức
quan trọng. Kế hoạch phỏng vấn nên liệt kê
rõ các công đoạn cần phải tiến hành như thư
mời phỏng vấn, ngân sách dự kiến. Trong
thư mời phỏng vấn có thể phải liệt kê rõ chủ
đề phỏng vấn, thời gian dự kiến, địa điểm,
cuối thư phải có các cam kết đảm bảo các
qui định bảo mật thông tin cho người được
phỏng vấn.
- Mã hóa các chủ đề và các nội dung có
liên quan đến đối tượng nghiên cứu;
- Phân tích dữ liệu (nhóm các thông tin
phát hiện mới, các thông tin điều chỉnh, các
thông tin loại bỏ)
- Đối chiếu, so sánh kết quả liên tục với
cơ sở lý thuyết
- Xác định điểm bão hòa thông tin
Tập 8 (12/2020)
7
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ QUẢN LÝ KINH TẾ
“Bạn đã đi đâu vào dịp nghỉ lễ? Đi với ai?
[...], Tại sao bạn chọn loại thức ăn địa
phương vào dịp nghỉ của bạn?, […] Điều gì
khiến bạn hài lòng/ bất mãn về thức ăn ở
địa phương đó?...”. Khi xử lý dữ liệu nhóm
tác giả đã phân loại các yếu tố tác động
đến sự lựa chọn thực phẩm làm 3 thành
phần(categories), trong đó thành phần
quan trọng nhất là các nhân tố thuộc động
cơ (motivational factors). Thành phần này
gồm các nội dung như: “trải nghiệm thú
vị”, “thoát khỏi thói quen”, “quan tâm sức
khỏe”,… “cảm giác hấp dẫn”…(Kim & cộng
sự 2009, tr. 425).
- Sử dụng phần mềm chuyên dụng cho
xử lý dữ liệu định tính
Văn bản hóa các nội dung phỏng vấn
hoặc thảo luận là qui trình bắt buộc phải
thực hiện của nhà nghiên cứu. Nếu không
thực hiện điều này, nhà nghiên cứu sẽ gặp
rất nhiều khó khăn trong quá trình mã
hóa và xử lý dữ liệu. Sau khi ghi âm hoặc
quay video cuộc phỏng vấn/thảo luận,
nhà nghiên cứu phải nghe/xem lại và
chuyển toàn bộ nội dung cuộc phỏng vấn
sang văn bản. Saunders & cộng sự (2009)
còn đề nghị nhà nghiên cứu phải quan sát,
nhận biết và thể hiện vào văn bản từng chi
tiết nhỏ như tiếng thở dài, sự ngập ngừng
của đối tượng phỏng vấn. Nếu không thể
ghi âm, ghi hình (vì đáp viên không đồng
ý), các đoạn ghi chú trong nhật ký phỏng
vấn phải được thể hiện thành văn bản
(dưới dạng tóm tắt). Sau khi thể hiện ra
văn bản, nhà nghiên cứu bắt đầu mã hóa
dữ liệu. Trở lại ví dụ của nhóm Kim &cộng
sự. (2009), nhóm tác giả này áp dụng
phương pháp lý thuyết nền theo trường
phái Straussian để “xây dự