Tư duy liên tưởng trong câu đố Nam Bộ

Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Số 12 - 2021  
TƯ DUY LIÊN TƯỞNG TRONG CÂU ĐỐ NAM BỘ  
Phạm Thu Hằng* Nguyễn Thị Mỹ Nhung  
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tây Đô  
(*Email: phamthuhang80@gmail.com)  
Ngày nhận: 15/4/2021  
Ngày phản biện: 01/6/2021  
Ngày duyệt đăng: 20/7/2021  
TÓM TẮT  
Tư duy con người thường được hình thành trên cơ sở hai dạng liên tưởng: So sánh tương  
đồng, đồng dạng và so sánh luận lý tiếp cận, lôgích. Đồng thời, trong giao tiếp, hai hình thức  
liên tưởng này được phân lập dựa trên tư duy chính xác và tư duy hình tượng. Tuy nhiên, văn  
bản nghệ thuật đề cao lối diễn đạt hình ảnh, xem trọng sự chính xác khoa học. Với thể loại  
“câu đố”, một loại hình nghệ thuật dân gian phổ biến, người ra câu đố và người giải câu đố  
cũng đều dựa trên nguyên lý vận hành tư duy nhận thức mà thử tài cao thấp với nhau. Bài  
viết nhằm phân tích các cơ sở liên tưởng tạo nên hình thức câu đố. Ngoài hai cơ sở liên tưởng  
dựa trên nguyên lý tư duy là tư duy chính xác và tư duy hình tượng của con người, còn có  
thêm cơ sở liên tưởng ngôn ngữ mà cơ sở liên tưởng này lại thuộc phạm trù ngôn ngữ gắn  
với hình thức sự dụng ngôn ngữ của cộng đồng và đó là hình thức phương ngữ Nam Bộ.  
Từ khóa: Câu đố, liên tưởng, nghệ thuật, nhận thức, tương đồng  
Trích dẫn: Phạm Thu Hằng Nguyễn Thị Mỹ Nhung, 2021. Tư duy liên tưởng trong câu  
đố Nam Bộ. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học  
Tây Đô. 12: 217-226.  
*Ths. Phạm Thu Hằng – Giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tây Đô  
217  
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Số 12 - 2021  
(cụ thể có 952 câu đố) khảo sát quyển Văn  
học dân gian An Giang do Huỳnh Công  
Tín chủ nhiệm kiêm chủ biên, nếu xét từ  
phương diện tư duy liên tưởng giữa hai  
phần đố và giải, có thể chia thành 5 loại,  
cụ thể như sau:  
1. GIỚI THIỆU  
Khi con người với một não bộ bình  
thường, không bị khuyết tật, vốn cùng  
một thành phần, một môi trường sống, sẽ  
hình thành những suy nghĩ tương tự, có  
nhiều điểm tương đồng nhau. Tuy nhiên,  
tư duy không thể triển khai, định hình nếu  
a. Liên tưởng tương đồng chính xác  
không thể hiện qua vỏ bọc ngôn ngữ. Vì với 153 câu (chiếm tỉ lệ 16,1%)  
vậy với lớp vỏ bọc này, hình thức tuy duy  
b. Liên tưởng tương đồng hình tượng  
có thể có những thể hiện khác biệt. Bởi  
có 341 câu (tỉ lệ 35,9%)  
đó, câu đối Nam Bộ và câu đối Bắc Bộ,  
c. Liên tưởng luận lý khoa học với số  
lượng 69 câu (tỉ lệ 7,3%)  
tuy có cùng một thực tại khách quan,  
nhưng kết cấu đố (hỏi) và giải (đáp) có  
thể khác biệt, mà điều này tạo nên sự khác  
biệt trên bề mặt từ ngữ của câu đố. Mặt  
khác, trên bình diện khoa học, đã có  
những bài nghiên cứu dựa trên ngữ liệu  
câu đố Bắc Bộ, nên bài viết này chỉ tập  
trung khai thác các khía cạnh tư duy của  
d. Liên tưởng luận lý nghệ thuật  75  
câu (tỉ lệ 7,9%)  
e. Liên tưởng trên cơ sở chơi chữ có số  
lượng 312 câu (tỉ lệ 32,8%).  
Qua số liệu khảo sát, chúng ta thấy loại  
câu đố Nam Bộ, dựa trên nguồn tư liệu đã câu đố dựa trên sự liên tưởng tương đồng  
sưu tầm được tại An Giang.  
hình tượng và liên tưởng trên cơ sở chơi  
chữ chiếm tỉ lệ tương đối cao so với 3 loại  
còn lại.  
Câu đố được xem là thể loại văn học  
dân gian Việt Nam, mô tả sự vật, hiện  
tượng quen thuộc theo cách nói chệch,  
đòi hỏi người nghe phải suy nghĩ, phán  
đoán. Theo các nhà nghiên cứu, nếu căn  
cứ vào đề tài thì câu đố được chia thành  
hai loại lớn: Câu đố về tự nhiên và câu đố  
về văn hoá (câu đố về những sản phẩm  
vật chất và tinh thần do con người làm ra).  
Còn căn cứ vào hình thức diễn tả, câu đố  
được chia thành các loại: Loại trực tiếp  
(không sử dụng hình thức so sánh, ẩn dụ)  
và loại gián tiếp (có sử dụng hình thức ẩn  
dụ, so sánh).  
2. NỘI DUNG  
2.1. Câu đố dựa trên tương đồng  
khoa học  
Câu đố dựa trên tương đồng khoa học  
thường được thiết lập trên cơ sở căn cứ  
vào các thuộc tính chính xác của sự vật,  
hiện tượng được miêu tả, nhằm thông qua  
các thuộc tính này mà suy luận ra các sự  
vật, hiện tượng tương ứng. Loại câu đố  
này thường có phần hỏi chú trọng vào đặc  
trưng cốt lõi của thông tin, nên không  
nặng hình thức trình bày, sự sắp xếp câu  
chữ sao cho có nghệ thuật hoặc có vần  
điệu. Chẳng hạn, các câu đố kiểu dạng  
như: “Chặt đứt, bứt rời, phơi khô, chụm  
Để có cách nhìn mới hơn về cách phân  
loại câu đố, chúng tôi dựa vào tư duy liên  
tưởng để phân loại. Với trên 950 câu đố  
218  
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Số 12 - 2021  
không cháy ”. Từ các thuộc tính chính yếu phổ biến, nên câu đố này theo thời gian  
được nêu: “+ đứt, + rời, + khô, - cháy”, trở nên khó giải.  
người trả lời sẽ đưa ra lời giải là cục đất,  
vì sự vật này cũng có những thuộc tính  
tương đồng có/ không như thông tin đã  
Ngoài ra, trong câu đố dân gian, nhóm  
dựa trên nét tương đồng khoa học này  
cũng được xây dựng câu đố chú trọng trau  
nêu. Tương tự, ở câu đố khác cũng có  
chuốt về mặt hình thức trình bày dưới  
hình thức thông tin như vậy, nhưng sự  
dạng có liên kết vần hoặc dưới dạng thơ;  
khác biệt thông tin là ở thuộc tính có/  
thường là thơ lục bát, để câu đố dễ nhớ,  
không, nên câu đố: “Chặt không đứt, bứt  
dễ thuộc mà có sức lưu truyền rộng rãi  
trong dân gian, như các câu đố được thể  
hiện dưới dạng thơ lục bát sau:  
không rời, phơi không khô, chụm không  
cháy.”, lại có thông tin chính yếu được  
nêu chỉ nhằm vào nét đối lập có/ không,  
Câu đố về con trâu: Tôi là bạn của  
nông gia,/ Thân đen đủi bẩn, nhưng mà  
công to.”. Dựa vào các chi tiết quá rõ  
ràng: “bạn, đen, bẩn, công to”, nên người  
giải có thể nghĩ đến con vật muôn đời đã  
là bạn của nhà nông.  
mà trong trường hợp này hoàn toàn chỉ có  
thuộc tính không (-): “- đứt, - rời, - khô, -  
cháy”, nên câu đáp sẽ được đưa ra là  
nước, vì nước cũng có những thuộc tính  
không như vậy.  
Tuy nhiên, có những câu đố mà thuộc  
tính của nó vừa mang tính chung, vừa có  
tính đặc thù nên khó nhận diện sự tương  
đồng hơn, dù sự tương đồng này cũng dựa  
trên nét tương đồng chính xác, như câu đố  
về trái cóc: “Ngoài xanh, trong trắng, ở  
giữa đống chà”. Chi tiết “xanh, trắng ” thì  
quá chung, có chi tiết “đống chà”, lại quá  
đặc thù khiến câu đố này không hề dễ  
giải. Còn câu đố về cây cân/cái cân: “Cái  
gì một cây, ba dây, một trái?” thì có 3 chi  
tiết đặc thù trong một sự vật, khiến người  
giải cũng khó lần ra sự vật ấy; vả lại, nói  
về cây cân hay cái cân thì có nhiều dạng,  
mà đây chỉ là một dạng cân (một loại cân  
đòn dạng nhỏ chỉ cân được vài kg, gồm  
một cây ngang (đòn cân) vạch các mức  
trọng lượng, có ba dây để treo một dĩa  
đựng đồ cân và một trái (quả) cân, được  
Hay câu đố khác về nước Cái gì  
chẳng rắn, chẳng dai,/ Ai mà cắt được thì  
tài lắm thay!. Dựa vào các chi tiết: “-  
rắn, - dai, - cắt”, người giải có thể nghĩ  
ngay đến nước, một vật thể rất gần gũi và  
rất cần thiết cho cuộc sống con người.  
Hoặc câu đố về gió Cái gì không sắc  
không hình,/ Rập rờn sóng lúa, rung rinh  
lá cành?. Dựa vào các chi tiết: “- sắc, -  
hình, + rập rờn, + rung rinh”, người giải  
có thể dựa vào hai thuộc tính có của hiện  
tượng mà đó ra được là gió trời…  
Còn đây là dạng câu đố khai thác sự  
hài âm, hài thanh để làm mờ những đặc  
trưng tương đồng chính xác, khiến người  
giải khó tìm lời đáp hơn, chẳng hạn:  
Câu đố về quả trứng trong quá trình  
treo và dịch chuyển trên đòn cân để định phát triển thành con: “Tròn tròn như lục  
trọng lượng), dân gian gọi là “cân xách”. lạc,/ Trong nạc ngoài xương. /Thọ khí  
Loại cân xách này hiện không còn được âm dương,/ Trong xương ngoài nạc.”.  
219  
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Số 12 - 2021  
Hoặc câu đố có lời giải là (con ốc, con  
cua): “Xào mặn, xào mẳn có đầu không  
cẳng,/ Xào mẳn, xào mặn, có cẳng không  
đầu.”. Cả hai câu đố đã khai thác tốt hiện  
tượng ngữ âm, hiện tượng điệp từ, điệp  
cú, nên không chỉ có giá trị về phương  
diện tư duy, mà còn có cả giá trị về  
phương diện nghệ thuật ngôn từ.  
2.2. Câu đố dựa trên tương đồng  
nghệ thuật  
Loại câu đố này chú trọng những nét  
tương đồng bất ngờ, lệ thuộc nhiều vào  
ngữ cảnh câu thơ, nên những câu đố  
thuộc nhóm này, tách ra khỏi lời giải nó  
vẫn là những sáng tác thơ dân gian thú vị.  
Bởi nó mang đầy đủ giá trị nghệ thuật tạo  
Mặt khác, cũng có câu đố có lớp vỏ hình, giá trị của những ẩn dụ tu từ, nhân  
nghệ thuật, khiến người giải khó tìm ra sự hóa và cả giá trị nghệ thuật thơ với sự gắn  
vật tương đồng nếu quá chú tâm vào hình bó từ trong niêm luật thể thơ. Có các câu  
thức nghệ thuật của câu đố. Như câu đố đố tiêu biểu cho dạng thức này như sau:  
bàn cờ và các quân cờ: “Một mẹ tới mấy  
Câu đố về thời gian (một tháng) được  
chục con,/ Con đen con trắng, con tròn  
thể hiện phổ biến ở mọi miền là, “Ba  
mẹ vuông.”. Câu đố khai thác tốt hình ảnh  
mươi con nhốt một lồng,/ Mười con có  
ẩn dụ, hiện tượng trái nghĩa, điệp từ, nên  
mồng, hai mươi con không.”. Nhưng  
trong phương ngữ Nam Bộ, câu đố này lại  
có khác, “Ba mươi con ở một nhà,/ Mười  
con ngủ mùng, hai chục con không.”. Hai  
nhiều lúc đánh lừa người giải nghĩ tới con  
vật hơn đồ vật. Tuy nhiên, một câu đố  
khác về con cua, có hình thức trình bày  
hoàn chỉnh dưới dạng một cặp lục bát  
câu đố này tuy có cùng kiểu cấu trúc,  
Con gì càng lớn càng nhỏ,/ Một mai hai  
nhưng do câu đố đầu có từ “mồng và  
lồng”, khiến người nghe nghĩ tới “con  
mắt lò dò bò ngang?” dễ giúp người giải  
tìm được lời đáp, bởi những thông tin đặc  
vật” (loài cầm). Còn câu đố sau có từ  
trưng được cung cấp nhiều hơn và dễ  
“mùng và nhà”, thì đối tượng được hướng  
nhận biết hơn được người đố nêu ở câu 8,  
tới không hẳn là con vật, mà có thể là  
thay vì chỉ một câu 6 chắc là khó nhận  
người. Tuy nhiên, ở câu đố Nam Bộ,  
diện hơn, bởi cặp từ “càng” có thể đánh  
không chỉ đơn thuần có hiện tượng  
lừa người ta về mặt từ loại giữa danh từ  
chuyển đổi ngữ âm từ “mồng” sang  
và phụ từ. Câu đố này, nếu chỉ có một câu  
“mùng”, bởi người phương Nam ngoài  
6, có thể xem như hiện tượng chơi chữ  
việc gọi những ngày đầu trong tháng là  
“mùng một, mùng hai, mùng ba, mùng  
khá thú vị.  
Hiện tượng khai thác nét tương đồng bốn…”, họ còn gọi “mồng một, mồng  
chính xác là cơ sở của ẩn dụ từ vựng. Tuy hai, mồng ba, mồng bốn…” như người ở  
nét liên tưởng thiếu tính bất ngờ, nhưng các vùng miền khác; nhưng khi dùng từ  
đặt trong ngữ cảnh phát ngôn thích hợp, “mùng” trong phương ngữ này, người ta  
vẫn tạo ra những giá trị nghệ thuật làm có tính đến một nghĩa khác, được hiểu là  
gia tăng sự hấp dẫn của câu đố.  
“màn” như trong phương ngữ Bắc Bộ. Vì  
vậy, từ 2 câu đố, có thể thấy câu đố Nam  
Bộ có một ngoại diên rộng hơn nhiều nên  
220  
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Số 12 - 2021  
việc xác định đối tượng nhiều khả năng tượng được nhắm tới. Đồng thời, cũng có  
nhầm lẫn hơn; riêng câu đố Bắc Bộ lại là nhu cầu miêu tả chúng trong quá trình vận  
câu thơ lục bát đảm bảo luật thanh vần, hành, khiến người giải khó tìm ra lời đáp.  
nhưng do từ “mồng” còn thêm từ “lồng” Mặt khác, người làm còn có nhu cầu tạo  
khiến ngoại diên câu đố hẹp đi rất nhiều. nên một tác phẩm thơ dân gian có độ  
Từ đó, lời giải cho câu đố này sẽ sớm rộng, không chỉ về mặt hình thức nghệ  
được nhận diện.  
thuật mà còn hàm chứa nội dung thông tin  
phong phú hơn. Chẳng hạn:  
Tương tự, có nhiều câu đố được thể  
hiện dưới hình thức thơ lục bát, như:  
Câu đố bàn tay: Năm ông cùng ở một  
nhà,/ Tình huynh nghĩa đệ vào ra thuận  
hoà./ Bốn ông tuổi đã lên ba,/ Một ông đã  
già nhưng mới lên hai.”. Chi tiết nghệ  
thuật thú vị, khéo léo trong câu đố này là  
chỗ quan niệm: một ngón cái (một ông đã  
già) và bốn ngón con (bốn ông), nhưng  
ngón cái chỉ có 2 lóng (tuổi lên hai), còn  
các ngón con đều có 3 lóng (tuổi lên ba).  
Câu đố đám sao trời được ví như bầy  
cò trắng: “Bầy cò lông trắng phau phau,/  
Ban đêm đi ăn, ban ngày trốn mất.”;  
Câu đố con tem, người Nam Bộ còn  
gọi “con cò” được nhân hóa rất thú vị:  
Con gì khi sống nằm yên,/ Đến khi nó  
chết lại đi trăm miền?”;  
Câu đố trái khóm/ trái thơm, miền  
Bắc gọi “quả dứa” còn được nhân hóa  
sống động hơn: “Đầu rồng đuôi phụng  
cánh tiên,/ Hàng trăm con mắt láo liên  
nhìn trời.”;  
Câu đố đôi mắt: Sinh đôi cùng lúc  
cùng giờ,/ Hai nhà cùng có hai bờ hàng  
cây./ Khi ngủ cùng ngủ một giây,/ Khi  
buồn cùng lúc trời đầy mưa tuôn.”. Chi  
tiết hết sức bất ngờ của câu đố này chính  
là cặp “sinh đôi”, nên thường giống nhau  
như khuôn. Trong cơ thể con người có  
nhiều cơ quan có đôi, như: tai, chân,  
tay…; nhưng chỉ có mắt là có “đôi bờ  
hàng cây ” (hai hàng lông mi), “cùng  
ngủ”, “cùng khóc” (trời đầy mưa tuôn).  
Hay câu đố gốc tre khô cũng được  
nhân hóa độc đáo: “Ông già ổng chết đã  
lâu,/ Con mắt trao tráo, hàm râu vẫn  
còn.”…  
Nhóm câu đố này thể hiện sự liên  
tưởng tương đồng nghệ thuật rất chính  
xác, nhưng cũng hết sức bất ngờ, nên khi  
sáng tạo, tác giả dân gian không chỉ chú  
trọng để tạo thành hình thức câu đố khó  
đoán; mà còn quan tâm miêu tả thực tại  
như một tác phẩm thơ, với đầy đủ yêu cầu  
của việc sử dụng thi pháp nghệ thuật.  
Câu đố chu kỳ mặt trăng: Thuở bé  
em có hai sừng,/ Đến tuổi nửa chừng mặt  
đẹp như hoa./ Ngoài hai mươi tuổi đã  
già,/ Quá ba mươi tuổi mọc ra hai sừng.”.  
Câu đố này ngẫm ra cũng rất thú vị, bởi:  
thuở bé” (trăng đầu tháng) thì có “có hai  
sừng ” (trăng khuyết), kiểu như còn bé có  
hai bím tóc; “đến tuổi nửa chừng” (rằm  
15/ 30) thì “mặt đẹp như hoa” (trăng  
tròn); ngoài hai mươi tuổi “đã già” (trăng  
Ngoài ra, có những thực tại khó đoán  
hơn nên khi xây dựng câu đố, tác giả dân  
gian một mặt đưa vào câu thơ nhiều chi  
tiết thuộc tính liên quan tới sự vật, hiện  
221  
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Số 12 - 2021  
méo); quá ba mươi tuổi mọc ra hai sừng giúp người giải luận suy chính xác để  
(khởi đầu trăng mới nên trăng lại phân loại đối tượng. Chẳng hạn:  
khuyết)…  
Câu đố đề cập các loại bút, viết: Bút  
Các câu đố dạng này thể hiện quá trình gì nghe đã nặng rồi? (bút chì)/ Bút gì trẻ  
nắm bắt thực tại hết sức chi tiết. Đồng con thường chơi ngày ngày? (bút bi)/ Bút  
thời, thực hiện một quá trình phác họa từ gì gọi đáp lời ngay? (bút dạ)/ Bút gì nói  
ngữ cũng hết sức dụng công, bởi nếu được mới hay mới tài? (bút đàm)/ Bút gì  
không sẽ khó định danh thuộc tính của điện lực vẫn xài? (bút thử điện)/ Bút gì  
thực tại bằng những tên gọi tương xứng, thể loại khoe tài văn chương? (bút ký)/  
nhưng lại giàu tính biểu trưng nghệ thuật. Bút gì kịch chiến văn thường? (bút  
Về phương diện câu đố, đây là loại câu đố chiến)/ Bút gì sĩ tử vẫn thường đi thi? (bút  
ẩn chứa những liên tưởng tư duy sâu sắc, nghiên)/ Bút gì tên thật giấu đi? (bút  
không chỉ ở người làm ra câu đố, đồng danh)/ Bút gì “gà chết” tức thì lạ chưa?  
thời, chỉ có ở người giải được câu đố. Về (bút sa)/ Bút gì dấu vết người xưa? (bút  
phương diện tác phẩm, đây là những bài tích)/ Bút gì hoạ sĩ vẫn ưa thích dùng?  
thơ hay, không chỉ ở giá trị nội dung (bút lông)”  
còn hàm chứa giá trị nghệ thuật thông qua  
việc khéo sử dụng các phương tiện mỹ từ  
pháp làm sinh động nghệ thuật thơ ca.  
Tương tự, có câu đố đề cập các thành  
tố (một yếu tố vô nghĩa khi đứng một  
mình, ngoại trừ hiện tượng đồng âm “cà”,  
trong: “cà chua, cà pháo, cà tím…: “Cà gì  
lên khói? (cà ràng)/ Cà gì lâu nhất? (cà  
kê)/ Cà gì lấp lánh? (cà rá)/ Cà gì trong  
chùa? (cà sa)”.  
2.3. Câu đố dựa trên luận lý khoa  
học  
Nhìn chung, mức độ khó của “đáp số”  
các câu đố dựa trên cơ sở luận lý (lô gích)  
có phần thấp hơn loại câu đố dựa trên cơ  
Một dạng câu đố cũng có kiểu kết cấu  
sở tương đồng, bởi hai phần của đáp án tương tự như câu đố trên, dù câu đố này  
thì được người đố cho trước một phần, có nhiều thực tại được nêu, thay vì chỉ có  
nên người giải chỉ cần nắm chắt phần cho một thực tại: “Một trăm thứ bông, bông  
trước rồi luận suy phần còn lại. Loại câu chi không cánh? (bông gòn)/ Một trăm  
đố này, tuy cũng được xác lập để đố, thứ bánh, bánh gì không ăn? (bánh xe)/  
nhưng có thể nói được là “đố cho vui”, Một trăm thứ tăng, tăng gì không thấy?  
còn gọi “đố vui”. Còn mục tiêu trọng yếu (tăng xông)/ Một trăm thứ giấy, giấy gì  
vẫn là muốn cung cấp thêm thông tin cho không trơn? (giấy nhám)/ Một trăm thứ  
người muốn tìm hiểu, hoặc nhắm vào giới sơn, sơn gì không phết? (sơn lâm)/ Một  
trẻ và người bình dân ít học. Các câu đố trăm thứ tết, tết gì của trẻ con? (tết trung  
dạng này bao gồm việc nêu ra một đối thu)/ Một trăm thứ kem, kem gì không  
tượng chung; trên cơ sở đối tượng ấy, lại xức? (kem đánh răng/ Một trăm thứ mứt,  
có từng câu nêu đặc trưng “định tính”, mứt gì không ăn? (mứt tết)/ Một trăm thứ  
xăng, xăng gì mắc nhất? (xăng máy bay)”  
222  
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Số 12 - 2021  
Ngoài ra, có một dạng câu đố mà gần lại quê hương,/ Cây kia hoa nở ngát thơm  
như người đố muốn giải bày tất cả các mặt hồ.”…  
thuộc tính có liên quan tới sự vật, hiện  
tượng, để tạo điều kiện cho người giải tìm  
ra đáp số dễ dàng. Xét từ bình diện tư duy,  
Nhìn chung, tất cả các câu đố dạng  
này, cần một tư duy luận lý chính xác,  
khoa học là đủ để xác lập được đối tượng  
loại câu đố này không đòi hỏi phải đào  
ẩn giấu trong câu đố. Tính nghệ thuật  
sâu nhiều thuộc tính sự vật, hiện tượng để  
được đánh giá cao là ở bình diện tác phẩm  
đoán định ra thực tại. Nhưng xét từ bình  
thơ.  
diện thơ, đây lại là tác phẩm có giá trị văn  
2.4. Câu đố dựa trên luận lý nghệ  
thuật  
chương, như bao tác phẩm văn học dân  
gian khác; nghĩa là, nó không chỉ chứa  
đựng giá trị nội dung mà còn mang cả giá  
trị nghệ thuật ngôn từ, nghệ thuật liên kết  
âm vận trong thơ. Chẳng hạn, có các câu  
đố sau:  
Nhóm câu đố này cũng cần liên tưởng  
trên cơ sở tư duy luận lý; nhưng hình thức  
câu đố lại được trình bày dưới dạng hình  
tượng, còn bản thân lời giải đố lại được  
luận suy bằng tư duy nghệ thuật ngôn từ.  
Với hai căn cứ từ hai bình diện kể trên,  
các câu đố kiểu dạng này bao gồm:  
Câu đố ngọn hải đăng: “Bơ vơ mỏm  
đá một mình,/ Dưới chân sóng biển rập  
rình quanh năm./ Ánh ngời sóng gọi xa  
xăm,/ Tàu to mảng bé hỏi thăm đường  
về.”;  
Câu đố về cây đế, một loài cây hoang  
dại trong tự nhiên, nhưng “đế” còn hàm  
nghĩa là vua của các vì vua: “Nghĩ mình  
cũng chánh vì vương,/Vậy mà ăn tuyết  
nằm sương một mình. ”.  
Câu đố cánh buồm: “Cũng gọi là cánh  
như chim,/ Những ngày lặng gió nằm im  
khoang thuyền./ Chờ cơn gió lộng kéo  
lên,/ Đưa thuyền rời bến tới miền khơi  
xa.”;  
Câu đố về me dốt: chỉ tình trạng me  
chuẩn bị chín, có hiện tượng vừa tróc vỏ,  
nhưng “dốt” còn hàm nghĩa không biết  
chữ: “Nghĩ mình gút mắc nhiều bề,/Sử  
kinh chẳng thuộc, thơ đề chẳng xong..  
Câu đố trái cân/ quả cân: “Không  
sinh từ cây, từ cội, từ cành,/ Sinh từ trí óc,  
bàn tay con người./ Trái gì không vị,  
không mùi,/ Không ăn, chỉ giúp cho đời  
thẳng ngay.”;  
Câu đố về trái sầu riêng: là một loại  
trái cây đặc sản của miền Tây Nam Bộ,  
nhưng “sầu riêng”, còn hàm nghĩa nỗi  
buồn tủi riêng mang: “Thảnh thơi tủi  
phận riêng mình,/ Vợ con xa vắng gia  
đình vỡ tan..  
Câu đố con ngỗng: “Con gì dài cổ lêu  
nghêu,/ Đuổi trộm cũng tốt tiếng kêu  
vang nhà./ Họ cùng ngan, vịt, gần gà,/  
Thấy ai lười học, thường là đến thăm?”;  
Câu đố về trái : là một loại quả thuộc  
nhóm rau củ quả, nhưng “bí” còn hàm  
nghĩa vô phương cách giải quyết sự việc:  
Câu đố cây bông súng - cây súng:  
Hai cây cùng có một tên,/ Cây xoè mặt  
nước, cây lên chiến trường./ Cây này ở  
223  
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Số 12 - 2021  
Tới chẳng lối, lui không đường,/ Trùng biển lên non,/ Bốn con kể đúng, vỗ giòn  
trùng vây phủ tứ phương núi rừng..  
pháo tay.”.  
Câu đố về cây chùm gởi: một loại cây  
Các câu đố còn lại đều ở dạng trên cơ  
không bám vào đất mà lại bám vào một sở các từ đã có trong câu đố, người giải  
cây khác để sống, nhưng “chùm gởi” còn phải luận suy thế nào để chọn được cặp  
hàm nghĩa sống nhờ: “Thương thay từ tạo nên được hiện tượng nói lái có  
không đất cắm dùi,/ Kiếm nơi nương tựa nghĩa, thì mới mong lời giải đó là đúng.  
nhờ trời hứng sương..  
Chẳng hạn:  
Câu đố về con trai: một loài thủy sản  
Câu đố về các thứ canh: “Cau vườn  
có vỏ bọc hai mảnh, nhưng “trai” còn không bẻ lại bẻ cau ranh,/ Ông bắt được  
hàm nghĩa trai tráng, trẻ trung: “Con gì ông câu bành,/ Thầy ký bắt được thầy ký  
trẻ mãi không già?”…  
banh.”. Từ các thành tố đã nêu, ta có lời  
giải cau ranh là canh rau; câu bành là canh  
bầu; ký banh là canh bí.  
Tất cả những câu đố dạng này, lời giải  
đố bào giờ cũng có hai tầng nghĩa: nghĩa  
đen và nghĩa bóng; nghĩa đen đáp ứng  
Câu đố củi mục: Giống xuồng trong  
yêu cầu thông tin hiển ngôn của thực tại, ngọn bơi ra,/ Nhưng mà cụt mũi người ta  
nghĩa bóng đám ứng yêu cầu hàm ngôn vớt về.” Từ thành tố đã nêu, ta có lời giải  
của phát ngôn.  
cụt mũi củi mục.  
Câu đố cái ô: Ông cố bên Tàu, ông cố  
ai?” Từ thành tố đã nêu, ta có lời giải cố  
ai là cái ô.  
2.5. Câu đố dựa trên hiện tượng chơi  
chữ  
Nhóm câu đố dựa trên hiện tượng này  
thường phần lớn khai thác hiện tượng nói  
Câu đố con nhái lặn: Chèo thuyền đi  
lái, hoặc đôi khi khai thác sự khác biệt từ đến Nam Vang,/ Viết thư nhắn lại em  
hình thái âm tiết thể hiện trên chữ viết mà khoan lấy chồng.” Từ thành tố đã nêu, ta  
tạo ra những liên tưởng từ ngữ mới, thật có lời giải nhắn lại nhái lặn.  
hết sức bất ngờ, thú vị. Các câu đố kiểu  
dạng này bao gồm:  
Câu đố gò mối: Ông già ổng lội qua  
sông,/ Ông rớt cái gói, chổng mông lại  
Câu đó về 4 con vật (rồng, cua, rùa, .” Từ thành tố đã nêu, ta có lời giải gói  
công). Câu đố dạng này, không thể căn cứ mò là gò mối. Loại câu đố này có độ khó  
vào bản thân những từ ngữ được dùng đ cao hơn bởi 2 thành tố lại không đứng gần  
xây dựng câu đố mà tạo được hiện tượng nhau;  
nói lái. Điều duy nhất đòi hỏi người giải,  
một mặt phải nắm được nội dung thông  
tin tổng thể của câu đố, mặt khác phải đáp  
ứng được yêu cầu đã nêu ra ở đầu đề,  
chẳng hạn: “Ghép tên hai con, nói lái,/  
Sẽ thành ra lại hai con./ Ai từng xuống  
Câu đố con còng: Chiếc xuồng chìm  
tại biển Đông,/ Vạt thì trôi hết mà cong  
còn.”; dị bản: “Ghe chài chìm giữa  
biển Đông,/ Bạn bè chết hết tài công có  
còn?” Từ thành tố đã nêu, ta có lời giải  
cong còn là con còng, hay công còn là con  
224  
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Số 12 - 2021  
còng. Loại câu đố này có độ khó cao hơn điều hiện tượng này đã trở thành thói  
bởi 2 thành tố lại không đứng gần nhau… quen trong tâm thức người Việt Nam Bộ,  
dù có học hay không thì người Nam Bộ  
Các câu đố được thiết lập dưới hình  
vẫn luôn nhạy bén trong mọi hiện tượng  
thức nói lái trong Nam Bộ thường có  
nói lái.  
khuynh hướng thay đổi phần vần giữa hai  
âm tiết, còn phụ âm đầu vẫn nguyên vị;  
riêng thanh điệu có thể hoán chuyển trật  
tự trước sau tùy thuộc vào đặc trưng ngữ  
nghĩa của đơn vị lái. Về phương diện  
quan hệ ngữ âm và chữ viết, tuy có sự  
khác biệt trong chừng mực giữa con chữ  
thể hiện và thanh âm, mà hầu hết người  
Nam Bộ đều nhận ra, nhưng sở dĩ có hiện  
tượng này là bởi vì trong khuynh hướng  
phát âm của họ có khá nhiều âm vị được  
thể hiện và tri nhận dưới dạng đồng âm,  
như: âm “-o--ô-”, các phụ âm cuối  
-n” và “-ng”; “-t” và “-c” được thể hiện  
bằng chữ viết, “thanh hỏi” thanh ngã”  
được thể hiện bằng chữ viết…  
3. KẾT LUẬN  
Thể loại câu đố dân gian Việt Nam nói  
chung, câu đố dân gian Nam Bộ nói riêng,  
vừa có những điểm chung vừa có sự khác  
biệt. Điểm chung là sự nhạy bén trong tư  
duy nhận thức của người dân khi xây  
dựng câu đố và tìm lời giải cho câu đố, dù  
dưới hình thức liên tưởng nào, dù thuộc  
địa hạt tư duy chính xác (khoa học) hay  
tư duy hình tượng (nghệ thuật), dù thuộc  
bình diện tư duy hay bình diện ngôn ngữ.  
Mặt khác, ở bình diện nghệ thuật thơ, nó  
còn thể hiện tài ứng khẩu thành thơ của  
c tác giả dân gian. Đồng thời, ở bình  
diện lưu truyền, các tác phẩm này luôn  
Ngoài ra, cần ghi nhận thêm hiện được tu sửa, gọt giũa để trở thành những  
tượng chơi chữ ở hai từ chỉ khác nhau ở sáng tác dân gian có giá trị cao cả về mặt  
phụ âm đầu, như trường hợp câu đố (con nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Điểm  
ốc): “Vốn là con cốc bay cao,/ Mất đầu khác biệt là ở dữ liệu câu đố, tư duy của  
thành giống dưới ao ăn bùn.”.  
người dân Nam Bộ là sự phản ánh thực tế  
vùng miền, mang nét thực tiễn cao; còn  
mức độ “ hoang sơ”, “thô ráp” thì chắc là  
cao hơn câu đố Bắc Bộ, bởi ca dao Bắc  
Bộ vốn được nhìn nhận có tính “mượt  
mà” và “thướt tha” hơn. Nhưng trong  
thưởng thức nghệ thuật, nghệ thuật văn  
chương dân gian nói riêng, vấn đề là ở  
nhu cầm thưởng thức thẩm mỹ ở mỗi  
vùng miền, hơn là việc lượng giá ở những  
thuộc tính vừa nêu.  
Các câu đố thể hiện dưới dạng chơi  
chữ nói chung, thường khó đoán định hơn  
nếu người giải không chú tâm vào bình  
diện này. Tuy nhiên, việc xác lập hình  
thức câu đố dưới dạng chơi chữ, một mặt  
vẫn đảm bảo hai phương diện nội dung và  
nghệ thuật của một bài thơ. Mặt khác, nó  
thể hiện sự thông minh, hóm hỉnh và khả  
năng sử dụng thành thạo tiếng Việt của  
người ra câu đố, và của người nghĩ ra  
được lời giải đúng. Nên nhớ rằng, hiện  
tượng nói lái trong tiếng Việt, người dân  
vùng miền nào cũng biết và sử dụng. Có  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Ninh Viết Giao, 2008. Câu đố  
Việt Nam. NXB Văn học.  
225  
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Số 12 - 2021  
2. Triều Nguyên, 2011.Câu đố  
người Việt. NXB Lao động.  
5. Huỳnh Công Tín (chủ biên),  
2021. Văn học dân gian An Giang.  
NXB Giáo dục.  
3. Nhiều tác giả, 2007. Tìm hiểu mô  
hình câu đố. NXB ĐHSP Hà Nội.  
6. Nguyễn Văn Trung, 2007. Câu đố  
Việt Nam, NXB Tổng hợp TP.HCM.  
4. Từ Phát, 1971. Thai đố phổ thông  
dẫn giải. NXB Văn học.  
THE ASSOCIATIVE THINKING IN SOUTHERN QUIZZES  
Pham Thu Hang* and Nguyen Thi My Nhung  
Faculty of Literature and Linguistics, Tay Do University  
(*Email: phamthuhang80@gmail.com)  
ABTRACT  
Human thinking is often formed on the basis of two types of association: Comparisons and  
logic. At the same time, in communication, these two forms of association are based on the  
accurate thinking and the image thinking that the text of the science or art field requires.  
However, artistic texts emphasize the way of expressing images, not disregarding scientific  
accuracy. With the "puzzle" genre, a popular folk art, puzzle makers and puzzle solvers are  
all based on the principle of running cognitive thinking and trying low and high together.  
This article aimed to analyze the associative bases that created the puzzle form. Among these,  
in addition to the two associations based on the principle of thinking which was correct  
thinking and human figurative thinking, there were additional linguistic associations but this  
association belongs to the category of language associated with the form of language used  
by the community and that was the form of Southern dialect.  
Keywords: Art, association, perception, quizze, similarity  
226  
pdf 10 trang Thùy Anh 13/05/2022 2360
Bạn đang xem tài liệu "Tư duy liên tưởng trong câu đố Nam Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftu_duy_lien_tuong_trong_cau_do_nam_bo.pdf