Tư duy liên tưởng trong câu đố Nam Bộ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 12 - 2021
TƯ DUY LIÊN TƯỞNG TRONG CÂU ĐỐ NAM BỘ
Phạm Thu Hằng* và Nguyễn Thị Mỹ Nhung
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tây Đô
(*Email: phamthuhang80@gmail.com)
Ngày nhận: 15/4/2021
Ngày phản biện: 01/6/2021
Ngày duyệt đăng: 20/7/2021
TÓM TẮT
Tư duy con người thường được hình thành trên cơ sở hai dạng liên tưởng: So sánh tương
đồng, đồng dạng và so sánh luận lý tiếp cận, lôgích. Đồng thời, trong giao tiếp, hai hình thức
liên tưởng này được phân lập dựa trên tư duy chính xác và tư duy hình tượng. Tuy nhiên, văn
bản nghệ thuật đề cao lối diễn đạt hình ảnh, xem trọng sự chính xác khoa học. Với thể loại
“câu đố”, một loại hình nghệ thuật dân gian phổ biến, người ra câu đố và người giải câu đố
cũng đều dựa trên nguyên lý vận hành tư duy nhận thức mà thử tài cao thấp với nhau. Bài
viết nhằm phân tích các cơ sở liên tưởng tạo nên hình thức câu đố. Ngoài hai cơ sở liên tưởng
dựa trên nguyên lý tư duy là tư duy chính xác và tư duy hình tượng của con người, còn có
thêm cơ sở liên tưởng ngôn ngữ mà cơ sở liên tưởng này lại thuộc phạm trù ngôn ngữ gắn
với hình thức sự dụng ngôn ngữ của cộng đồng và đó là hình thức phương ngữ Nam Bộ.
Từ khóa: Câu đố, liên tưởng, nghệ thuật, nhận thức, tương đồng
Trích dẫn: Phạm Thu Hằng và Nguyễn Thị Mỹ Nhung, 2021. Tư duy liên tưởng trong câu
đố Nam Bộ. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học
Tây Đô. 12: 217-226.
*Ths. Phạm Thu Hằng – Giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tây Đô
217
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 12 - 2021
(cụ thể có 952 câu đố) khảo sát quyển Văn
học dân gian An Giang do Huỳnh Công
Tín chủ nhiệm kiêm chủ biên, nếu xét từ
phương diện tư duy liên tưởng giữa hai
phần đố và giải, có thể chia thành 5 loại,
cụ thể như sau:
1. GIỚI THIỆU
Khi con người với một não bộ bình
thường, không bị khuyết tật, vốn cùng
một thành phần, một môi trường sống, sẽ
hình thành những suy nghĩ tương tự, có
nhiều điểm tương đồng nhau. Tuy nhiên,
tư duy không thể triển khai, định hình nếu
a. Liên tưởng tương đồng chính xác
không thể hiện qua vỏ bọc ngôn ngữ. Vì với 153 câu (chiếm tỉ lệ 16,1%)
vậy với lớp vỏ bọc này, hình thức tuy duy
b. Liên tưởng tương đồng hình tượng
có thể có những thể hiện khác biệt. Bởi
có 341 câu (tỉ lệ 35,9%)
đó, câu đối Nam Bộ và câu đối Bắc Bộ,
c. Liên tưởng luận lý khoa học với số
lượng 69 câu (tỉ lệ 7,3%)
tuy có cùng một thực tại khách quan,
nhưng kết cấu đố (hỏi) và giải (đáp) có
thể khác biệt, mà điều này tạo nên sự khác
biệt trên bề mặt từ ngữ của câu đố. Mặt
khác, trên bình diện khoa học, đã có
những bài nghiên cứu dựa trên ngữ liệu
câu đố Bắc Bộ, nên bài viết này chỉ tập
trung khai thác các khía cạnh tư duy của
d. Liên tưởng luận lý nghệ thuật là 75
câu (tỉ lệ 7,9%)
e. Liên tưởng trên cơ sở chơi chữ có số
lượng 312 câu (tỉ lệ 32,8%).
Qua số liệu khảo sát, chúng ta thấy loại
câu đố Nam Bộ, dựa trên nguồn tư liệu đã câu đố dựa trên sự liên tưởng tương đồng
sưu tầm được tại An Giang.
hình tượng và liên tưởng trên cơ sở chơi
chữ chiếm tỉ lệ tương đối cao so với 3 loại
còn lại.
Câu đố được xem là thể loại văn học
dân gian Việt Nam, mô tả sự vật, hiện
tượng quen thuộc theo cách nói chệch,
đòi hỏi người nghe phải suy nghĩ, phán
đoán. Theo các nhà nghiên cứu, nếu căn
cứ vào đề tài thì câu đố được chia thành
hai loại lớn: Câu đố về tự nhiên và câu đố
về văn hoá (câu đố về những sản phẩm
vật chất và tinh thần do con người làm ra).
Còn căn cứ vào hình thức diễn tả, câu đố
được chia thành các loại: Loại trực tiếp
(không sử dụng hình thức so sánh, ẩn dụ)
và loại gián tiếp (có sử dụng hình thức ẩn
dụ, so sánh).
2. NỘI DUNG
2.1. Câu đố dựa trên tương đồng
khoa học
Câu đố dựa trên tương đồng khoa học
thường được thiết lập trên cơ sở căn cứ
vào các thuộc tính chính xác của sự vật,
hiện tượng được miêu tả, nhằm thông qua
các thuộc tính này mà suy luận ra các sự
vật, hiện tượng tương ứng. Loại câu đố
này thường có phần hỏi chú trọng vào đặc
trưng cốt lõi của thông tin, nên không
nặng hình thức trình bày, sự sắp xếp câu
chữ sao cho có nghệ thuật hoặc có vần
điệu. Chẳng hạn, các câu đố kiểu dạng
như: “Chặt đứt, bứt rời, phơi khô, chụm
Để có cách nhìn mới hơn về cách phân
loại câu đố, chúng tôi dựa vào tư duy liên
tưởng để phân loại. Với trên 950 câu đố
218
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 12 - 2021
không cháy ”. Từ các thuộc tính chính yếu phổ biến, nên câu đố này theo thời gian
được nêu: “+ đứt, + rời, + khô, - cháy”, trở nên khó giải.
người trả lời sẽ đưa ra lời giải là cục đất,
vì sự vật này cũng có những thuộc tính
tương đồng có/ không như thông tin đã
Ngoài ra, trong câu đố dân gian, nhóm
dựa trên nét tương đồng khoa học này
cũng được xây dựng câu đố chú trọng trau
nêu. Tương tự, ở câu đố khác cũng có
chuốt về mặt hình thức trình bày dưới
hình thức thông tin như vậy, nhưng sự
dạng có liên kết vần hoặc dưới dạng thơ;
khác biệt thông tin là ở thuộc tính có/
thường là thơ lục bát, để câu đố dễ nhớ,
không, nên câu đố: “Chặt không đứt, bứt
dễ thuộc mà có sức lưu truyền rộng rãi
trong dân gian, như các câu đố được thể
hiện dưới dạng thơ lục bát sau:
không rời, phơi không khô, chụm không
cháy.”, lại có thông tin chính yếu được
nêu chỉ nhằm vào nét đối lập có/ không,
Câu đố về con trâu: “Tôi là bạn của
nông gia,/ Thân đen đủi bẩn, nhưng mà
công to.”. Dựa vào các chi tiết quá rõ
ràng: “bạn, đen, bẩn, công to”, nên người
giải có thể nghĩ đến con vật muôn đời đã
là bạn của nhà nông.
mà trong trường hợp này hoàn toàn chỉ có
thuộc tính không (-): “- đứt, - rời, - khô, -
cháy”, nên câu đáp sẽ được đưa ra là
nước, vì nước cũng có những thuộc tính
không như vậy.
Tuy nhiên, có những câu đố mà thuộc
tính của nó vừa mang tính chung, vừa có
tính đặc thù nên khó nhận diện sự tương
đồng hơn, dù sự tương đồng này cũng dựa
trên nét tương đồng chính xác, như câu đố
về trái cóc: “Ngoài xanh, trong trắng, ở
giữa đống chà”. Chi tiết “xanh, trắng ” thì
quá chung, có chi tiết “đống chà”, lại quá
đặc thù khiến câu đố này không hề dễ
giải. Còn câu đố về cây cân/cái cân: “Cái
gì một cây, ba dây, một trái?” thì có 3 chi
tiết đặc thù trong một sự vật, khiến người
giải cũng khó lần ra sự vật ấy; vả lại, nói
về cây cân hay cái cân thì có nhiều dạng,
mà đây chỉ là một dạng cân (một loại cân
đòn dạng nhỏ chỉ cân được vài kg, gồm
một cây ngang (đòn cân) vạch các mức
trọng lượng, có ba dây để treo một dĩa
đựng đồ cân và một trái (quả) cân, được
Hay câu đố khác về nước “Cái gì
chẳng rắn, chẳng dai,/ Ai mà cắt được thì
tài lắm thay!”. Dựa vào các chi tiết: “-
rắn, - dai, - cắt”, người giải có thể nghĩ
ngay đến nước, một vật thể rất gần gũi và
rất cần thiết cho cuộc sống con người.
Hoặc câu đố về gió “Cái gì không sắc
không hình,/ Rập rờn sóng lúa, rung rinh
lá cành?”. Dựa vào các chi tiết: “- sắc, -
hình, + rập rờn, + rung rinh”, người giải
có thể dựa vào hai thuộc tính có của hiện
tượng mà đó ra được là gió trời…
Còn đây là dạng câu đố khai thác sự
hài âm, hài thanh để làm mờ những đặc
trưng tương đồng chính xác, khiến người
giải khó tìm lời đáp hơn, chẳng hạn:
Câu đố về quả trứng trong quá trình
treo và dịch chuyển trên đòn cân để định phát triển thành con: “Tròn tròn như lục
trọng lượng), dân gian gọi là “cân xách”. lạc,/ Trong nạc ngoài xương. /Thọ khí
Loại cân xách này hiện không còn được âm dương,/ Trong xương ngoài nạc.”.
219
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 12 - 2021
Hoặc câu đố có lời giải là (con ốc, con
cua): “Xào mặn, xào mẳn có đầu không
cẳng,/ Xào mẳn, xào mặn, có cẳng không
đầu.”. Cả hai câu đố đã khai thác tốt hiện
tượng ngữ âm, hiện tượng điệp từ, điệp
cú, nên không chỉ có giá trị về phương
diện tư duy, mà còn có cả giá trị về
phương diện nghệ thuật ngôn từ.
2.2. Câu đố dựa trên tương đồng
nghệ thuật
Loại câu đố này chú trọng những nét
tương đồng bất ngờ, lệ thuộc nhiều vào
ngữ cảnh câu thơ, nên những câu đố
thuộc nhóm này, tách ra khỏi lời giải nó
vẫn là những sáng tác thơ dân gian thú vị.
Bởi nó mang đầy đủ giá trị nghệ thuật tạo
Mặt khác, cũng có câu đố có lớp vỏ hình, giá trị của những ẩn dụ tu từ, nhân
nghệ thuật, khiến người giải khó tìm ra sự hóa và cả giá trị nghệ thuật thơ với sự gắn
vật tương đồng nếu quá chú tâm vào hình bó từ trong niêm luật thể thơ. Có các câu
thức nghệ thuật của câu đố. Như câu đố đố tiêu biểu cho dạng thức này như sau:
bàn cờ và các quân cờ: “Một mẹ tới mấy
Câu đố về thời gian (một tháng) được
chục con,/ Con đen con trắng, con tròn
thể hiện phổ biến ở mọi miền là, “Ba
mẹ vuông.”. Câu đố khai thác tốt hình ảnh
mươi con nhốt một lồng,/ Mười con có
ẩn dụ, hiện tượng trái nghĩa, điệp từ, nên
mồng, hai mươi con không.”. Nhưng
trong phương ngữ Nam Bộ, câu đố này lại
có khác, “Ba mươi con ở một nhà,/ Mười
con ngủ mùng, hai chục con không.”. Hai
nhiều lúc đánh lừa người giải nghĩ tới con
vật hơn đồ vật. Tuy nhiên, một câu đố
khác về con cua, có hình thức trình bày
hoàn chỉnh dưới dạng một cặp lục bát
câu đố này tuy có cùng kiểu cấu trúc,
“Con gì càng lớn càng nhỏ,/ Một mai hai
nhưng do câu đố đầu có từ “mồng và
lồng”, khiến người nghe nghĩ tới “con
mắt lò dò bò ngang?” dễ giúp người giải
tìm được lời đáp, bởi những thông tin đặc
vật” (loài cầm). Còn câu đố sau có từ
trưng được cung cấp nhiều hơn và dễ
“mùng và nhà”, thì đối tượng được hướng
nhận biết hơn được người đố nêu ở câu 8,
tới không hẳn là con vật, mà có thể là
thay vì chỉ một câu 6 chắc là khó nhận
người. Tuy nhiên, ở câu đố Nam Bộ,
diện hơn, bởi cặp từ “càng” có thể đánh
không chỉ đơn thuần có hiện tượng
lừa người ta về mặt từ loại giữa danh từ
chuyển đổi ngữ âm từ “mồng” sang
và phụ từ. Câu đố này, nếu chỉ có một câu
“mùng”, bởi người phương Nam ngoài
6, có thể xem như hiện tượng chơi chữ
việc gọi những ngày đầu trong tháng là
“mùng một, mùng hai, mùng ba, mùng
khá thú vị.
Hiện tượng khai thác nét tương đồng bốn…”, họ còn gọi “mồng một, mồng
chính xác là cơ sở của ẩn dụ từ vựng. Tuy hai, mồng ba, mồng bốn…” như người ở
nét liên tưởng thiếu tính bất ngờ, nhưng các vùng miền khác; nhưng khi dùng từ
đặt trong ngữ cảnh phát ngôn thích hợp, “mùng” trong phương ngữ này, người ta
vẫn tạo ra những giá trị nghệ thuật làm có tính đến một nghĩa khác, được hiểu là
gia tăng sự hấp dẫn của câu đố.
“màn” như trong phương ngữ Bắc Bộ. Vì
vậy, từ 2 câu đố, có thể thấy câu đố Nam
Bộ có một ngoại diên rộng hơn nhiều nên
220
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 12 - 2021
việc xác định đối tượng nhiều khả năng tượng được nhắm tới. Đồng thời, cũng có
nhầm lẫn hơn; riêng câu đố Bắc Bộ lại là nhu cầu miêu tả chúng trong quá trình vận
câu thơ lục bát đảm bảo luật thanh vần, hành, khiến người giải khó tìm ra lời đáp.
nhưng do từ “mồng” còn thêm từ “lồng” Mặt khác, người làm còn có nhu cầu tạo
khiến ngoại diên câu đố hẹp đi rất nhiều. nên một tác phẩm thơ dân gian có độ
Từ đó, lời giải cho câu đố này sẽ sớm rộng, không chỉ về mặt hình thức nghệ
được nhận diện.
thuật mà còn hàm chứa nội dung thông tin
phong phú hơn. Chẳng hạn:
Tương tự, có nhiều câu đố được thể
hiện dưới hình thức thơ lục bát, như:
Câu đố bàn tay: “Năm ông cùng ở một
nhà,/ Tình huynh nghĩa đệ vào ra thuận
hoà./ Bốn ông tuổi đã lên ba,/ Một ông đã
già nhưng mới lên hai.”. Chi tiết nghệ
thuật thú vị, khéo léo trong câu đố này là
chỗ quan niệm: một ngón cái (một ông đã
già) và bốn ngón con (bốn ông), nhưng
ngón cái chỉ có 2 lóng (tuổi lên hai), còn
các ngón con đều có 3 lóng (tuổi lên ba).
Câu đố đám sao trời được ví như bầy
cò trắng: “Bầy cò lông trắng phau phau,/
Ban đêm đi ăn, ban ngày trốn mất.”;
Câu đố con tem, người Nam Bộ còn
gọi “con cò” được nhân hóa rất thú vị:
“Con gì khi sống nằm yên,/ Đến khi nó
chết lại đi trăm miền?”;
Câu đố trái khóm/ trái thơm, miền
Bắc gọi “quả dứa” còn được nhân hóa
sống động hơn: “Đầu rồng đuôi phụng
cánh tiên,/ Hàng trăm con mắt láo liên
nhìn trời.”;
Câu đố đôi mắt: “Sinh đôi cùng lúc
cùng giờ,/ Hai nhà cùng có hai bờ hàng
cây./ Khi ngủ cùng ngủ một giây,/ Khi
buồn cùng lúc trời đầy mưa tuôn.”. Chi
tiết hết sức bất ngờ của câu đố này chính
là cặp “sinh đôi”, nên thường giống nhau
như khuôn. Trong cơ thể con người có
nhiều cơ quan có đôi, như: tai, chân,
tay…; nhưng chỉ có mắt là có “đôi bờ
hàng cây ” (hai hàng lông mi), “cùng
ngủ”, “cùng khóc” (trời đầy mưa tuôn).
Hay câu đố gốc tre khô cũng được
nhân hóa độc đáo: “Ông già ổng chết đã
lâu,/ Con mắt trao tráo, hàm râu vẫn
còn.”…
Nhóm câu đố này thể hiện sự liên
tưởng tương đồng nghệ thuật rất chính
xác, nhưng cũng hết sức bất ngờ, nên khi
sáng tạo, tác giả dân gian không chỉ chú
trọng để tạo thành hình thức câu đố khó
đoán; mà còn quan tâm miêu tả thực tại
như một tác phẩm thơ, với đầy đủ yêu cầu
của việc sử dụng thi pháp nghệ thuật.
Câu đố chu kỳ mặt trăng: “Thuở bé
em có hai sừng,/ Đến tuổi nửa chừng mặt
đẹp như hoa./ Ngoài hai mươi tuổi đã
già,/ Quá ba mươi tuổi mọc ra hai sừng.”.
Câu đố này ngẫm ra cũng rất thú vị, bởi:
“thuở bé” (trăng đầu tháng) thì có “có hai
sừng ” (trăng khuyết), kiểu như còn bé có
hai bím tóc; “đến tuổi nửa chừng” (rằm
15/ 30) thì “mặt đẹp như hoa” (trăng
tròn); ngoài hai mươi tuổi “đã già” (trăng
Ngoài ra, có những thực tại khó đoán
hơn nên khi xây dựng câu đố, tác giả dân
gian một mặt đưa vào câu thơ nhiều chi
tiết thuộc tính liên quan tới sự vật, hiện
221
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 12 - 2021
méo); quá ba mươi tuổi mọc ra hai sừng giúp người giải luận suy chính xác để
(khởi đầu trăng mới nên trăng lại phân loại đối tượng. Chẳng hạn:
khuyết)…
Câu đố đề cập các loại bút, viết: “Bút
Các câu đố dạng này thể hiện quá trình gì nghe đã nặng rồi? (bút chì)/ Bút gì trẻ
nắm bắt thực tại hết sức chi tiết. Đồng con thường chơi ngày ngày? (bút bi)/ Bút
thời, thực hiện một quá trình phác họa từ gì gọi đáp lời ngay? (bút dạ)/ Bút gì nói
ngữ cũng hết sức dụng công, bởi nếu được mới hay mới tài? (bút đàm)/ Bút gì
không sẽ khó định danh thuộc tính của điện lực vẫn xài? (bút thử điện)/ Bút gì
thực tại bằng những tên gọi tương xứng, thể loại khoe tài văn chương? (bút ký)/
nhưng lại giàu tính biểu trưng nghệ thuật. Bút gì kịch chiến văn thường? (bút
Về phương diện câu đố, đây là loại câu đố chiến)/ Bút gì sĩ tử vẫn thường đi thi? (bút
ẩn chứa những liên tưởng tư duy sâu sắc, nghiên)/ Bút gì tên thật giấu đi? (bút
không chỉ ở người làm ra câu đố, đồng danh)/ Bút gì “gà chết” tức thì lạ chưa?
thời, chỉ có ở người giải được câu đố. Về (bút sa)/ Bút gì dấu vết người xưa? (bút
phương diện tác phẩm, đây là những bài tích)/ Bút gì hoạ sĩ vẫn ưa thích dùng?
thơ hay, không chỉ ở giá trị nội dung mà (bút lông)”
còn hàm chứa giá trị nghệ thuật thông qua
việc khéo sử dụng các phương tiện mỹ từ
pháp làm sinh động nghệ thuật thơ ca.
Tương tự, có câu đố đề cập các thành
tố cà (một yếu tố vô nghĩa khi đứng một
mình, ngoại trừ hiện tượng đồng âm “cà”,
trong: “cà chua, cà pháo, cà tím…: “Cà gì
lên khói? (cà ràng)/ Cà gì lâu nhất? (cà
kê)/ Cà gì lấp lánh? (cà rá)/ Cà gì trong
chùa? (cà sa)”.
2.3. Câu đố dựa trên luận lý khoa
học
Nhìn chung, mức độ khó của “đáp số”
các câu đố dựa trên cơ sở luận lý (lô gích)
có phần thấp hơn loại câu đố dựa trên cơ
Một dạng câu đố cũng có kiểu kết cấu
sở tương đồng, bởi hai phần của đáp án tương tự như câu đố trên, dù câu đố này
thì được người đố cho trước một phần, có nhiều thực tại được nêu, thay vì chỉ có
nên người giải chỉ cần nắm chắt phần cho một thực tại: “Một trăm thứ bông, bông
trước rồi luận suy phần còn lại. Loại câu chi không cánh? (bông gòn)/ Một trăm
đố này, tuy cũng được xác lập để đố, thứ bánh, bánh gì không ăn? (bánh xe)/
nhưng có thể nói được là “đố cho vui”, Một trăm thứ tăng, tăng gì không thấy?
còn gọi “đố vui”. Còn mục tiêu trọng yếu (tăng xông)/ Một trăm thứ giấy, giấy gì
vẫn là muốn cung cấp thêm thông tin cho không trơn? (giấy nhám)/ Một trăm thứ
người muốn tìm hiểu, hoặc nhắm vào giới sơn, sơn gì không phết? (sơn lâm)/ Một
trẻ và người bình dân ít học. Các câu đố trăm thứ tết, tết gì của trẻ con? (tết trung
dạng này bao gồm việc nêu ra một đối thu)/ Một trăm thứ kem, kem gì không
tượng chung; trên cơ sở đối tượng ấy, lại xức? (kem đánh răng/ Một trăm thứ mứt,
có từng câu nêu đặc trưng “định tính”, mứt gì không ăn? (mứt tết)/ Một trăm thứ
xăng, xăng gì mắc nhất? (xăng máy bay)”
222
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 12 - 2021
Ngoài ra, có một dạng câu đố mà gần lại quê hương,/ Cây kia hoa nở ngát thơm
như người đố muốn giải bày tất cả các mặt hồ.”…
thuộc tính có liên quan tới sự vật, hiện
tượng, để tạo điều kiện cho người giải tìm
ra đáp số dễ dàng. Xét từ bình diện tư duy,
Nhìn chung, tất cả các câu đố dạng
này, cần một tư duy luận lý chính xác,
khoa học là đủ để xác lập được đối tượng
loại câu đố này không đòi hỏi phải đào
ẩn giấu trong câu đố. Tính nghệ thuật
sâu nhiều thuộc tính sự vật, hiện tượng để
được đánh giá cao là ở bình diện tác phẩm
đoán định ra thực tại. Nhưng xét từ bình
thơ.
diện thơ, đây lại là tác phẩm có giá trị văn
2.4. Câu đố dựa trên luận lý nghệ
thuật
chương, như bao tác phẩm văn học dân
gian khác; nghĩa là, nó không chỉ chứa
đựng giá trị nội dung mà còn mang cả giá
trị nghệ thuật ngôn từ, nghệ thuật liên kết
âm vận trong thơ. Chẳng hạn, có các câu
đố sau:
Nhóm câu đố này cũng cần liên tưởng
trên cơ sở tư duy luận lý; nhưng hình thức
câu đố lại được trình bày dưới dạng hình
tượng, còn bản thân lời giải đố lại được
luận suy bằng tư duy nghệ thuật ngôn từ.
Với hai căn cứ từ hai bình diện kể trên,
các câu đố kiểu dạng này bao gồm:
Câu đố ngọn hải đăng: “Bơ vơ mỏm
đá một mình,/ Dưới chân sóng biển rập
rình quanh năm./ Ánh ngời sóng gọi xa
xăm,/ Tàu to mảng bé hỏi thăm đường
về.”;
Câu đố về cây đế, một loài cây hoang
dại trong tự nhiên, nhưng “đế” còn hàm
nghĩa là vua của các vì vua: “Nghĩ mình
cũng chánh vì vương,/Vậy mà ăn tuyết
nằm sương một mình. ”.
Câu đố cánh buồm: “Cũng gọi là cánh
như chim,/ Những ngày lặng gió nằm im
khoang thuyền./ Chờ cơn gió lộng kéo
lên,/ Đưa thuyền rời bến tới miền khơi
xa.”;
Câu đố về me dốt: chỉ tình trạng me
chuẩn bị chín, có hiện tượng vừa tróc vỏ,
nhưng “dốt” còn hàm nghĩa không biết
chữ: “Nghĩ mình gút mắc nhiều bề,/Sử
kinh chẳng thuộc, thơ đề chẳng xong.”.
Câu đố trái cân/ quả cân: “Không
sinh từ cây, từ cội, từ cành,/ Sinh từ trí óc,
bàn tay con người./ Trái gì không vị,
không mùi,/ Không ăn, chỉ giúp cho đời
thẳng ngay.”;
Câu đố về trái sầu riêng: là một loại
trái cây đặc sản của miền Tây Nam Bộ,
nhưng “sầu riêng”, còn hàm nghĩa nỗi
buồn tủi riêng mang: “Thảnh thơi tủi
phận riêng mình,/ Vợ con xa vắng gia
đình vỡ tan.”.
Câu đố con ngỗng: “Con gì dài cổ lêu
nghêu,/ Đuổi trộm cũng tốt tiếng kêu
vang nhà./ Họ cùng ngan, vịt, gần gà,/
Thấy ai lười học, thường là đến thăm?”;
Câu đố về trái bí: là một loại quả thuộc
nhóm rau củ quả, nhưng “bí” còn hàm
nghĩa vô phương cách giải quyết sự việc:
Câu đố cây bông súng - cây súng:
“Hai cây cùng có một tên,/ Cây xoè mặt
nước, cây lên chiến trường./ Cây này ở
223
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 12 - 2021
“Tới chẳng lối, lui không đường,/ Trùng biển lên non,/ Bốn con kể đúng, vỗ giòn
trùng vây phủ tứ phương núi rừng.”.
pháo tay.”.
Câu đố về cây chùm gởi: một loại cây
Các câu đố còn lại đều ở dạng trên cơ
không bám vào đất mà lại bám vào một sở các từ đã có trong câu đố, người giải
cây khác để sống, nhưng “chùm gởi” còn phải luận suy thế nào để chọn được cặp
hàm nghĩa sống nhờ: “Thương thay từ tạo nên được hiện tượng nói lái có
không đất cắm dùi,/ Kiếm nơi nương tựa nghĩa, thì mới mong lời giải đó là đúng.
nhờ trời hứng sương.”.
Chẳng hạn:
Câu đố về con trai: một loài thủy sản
Câu đố về các thứ canh: “Cau vườn
có vỏ bọc hai mảnh, nhưng “trai” còn không bẻ lại bẻ cau ranh,/ Ông bắt được
hàm nghĩa trai tráng, trẻ trung: “Con gì ông câu bành,/ Thầy ký bắt được thầy ký
trẻ mãi không già?”…
banh.”. Từ các thành tố đã nêu, ta có lời
giải cau ranh là canh rau; câu bành là canh
bầu; ký banh là canh bí.
Tất cả những câu đố dạng này, lời giải
đố bào giờ cũng có hai tầng nghĩa: nghĩa
đen và nghĩa bóng; nghĩa đen đáp ứng
Câu đố củi mục: “Giống xuồng trong
yêu cầu thông tin hiển ngôn của thực tại, ngọn bơi ra,/ Nhưng mà cụt mũi người ta
nghĩa bóng đám ứng yêu cầu hàm ngôn vớt về.” Từ thành tố đã nêu, ta có lời giải
của phát ngôn.
cụt mũi củi mục.
Câu đố cái ô: “Ông cố bên Tàu, ông cố
ai?” Từ thành tố đã nêu, ta có lời giải cố
ai là cái ô.
2.5. Câu đố dựa trên hiện tượng chơi
chữ
Nhóm câu đố dựa trên hiện tượng này
thường phần lớn khai thác hiện tượng nói
Câu đố con nhái lặn: “ Chèo thuyền đi
lái, hoặc đôi khi khai thác sự khác biệt từ đến Nam Vang,/ Viết thư nhắn lại em
hình thái âm tiết thể hiện trên chữ viết mà khoan lấy chồng.” Từ thành tố đã nêu, ta
tạo ra những liên tưởng từ ngữ mới, thật có lời giải nhắn lại nhái lặn.
hết sức bất ngờ, thú vị. Các câu đố kiểu
dạng này bao gồm:
Câu đố gò mối: “Ông già ổng lội qua
sông,/ Ông rớt cái gói, chổng mông lại
Câu đó về 4 con vật (rồng, cua, rùa, mò.” Từ thành tố đã nêu, ta có lời giải gói
công). Câu đố dạng này, không thể căn cứ mò là gò mối. Loại câu đố này có độ khó
vào bản thân những từ ngữ được dùng để cao hơn bởi 2 thành tố lại không đứng gần
xây dựng câu đố mà tạo được hiện tượng nhau;
nói lái. Điều duy nhất đòi hỏi người giải,
một mặt phải nắm được nội dung thông
tin tổng thể của câu đố, mặt khác phải đáp
ứng được yêu cầu đã nêu ra ở đầu đề,
chẳng hạn: “Ghép tên hai con, nói lái,/
Sẽ thành ra lại hai con./ Ai từng xuống
Câu đố con còng: “Chiếc xuồng chìm
tại biển Đông,/ Vạt thì trôi hết mà cong
nó còn.”; dị bản: “Ghe chài chìm giữa
biển Đông,/ Bạn bè chết hết tài công có
còn?” Từ thành tố đã nêu, ta có lời giải
cong còn là con còng, hay công còn là con
224
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 12 - 2021
còng. Loại câu đố này có độ khó cao hơn điều hiện tượng này đã trở thành thói
bởi 2 thành tố lại không đứng gần nhau… quen trong tâm thức người Việt Nam Bộ,
dù có học hay không thì người Nam Bộ
Các câu đố được thiết lập dưới hình
vẫn luôn nhạy bén trong mọi hiện tượng
thức nói lái trong Nam Bộ thường có
nói lái.
khuynh hướng thay đổi phần vần giữa hai
âm tiết, còn phụ âm đầu vẫn nguyên vị;
riêng thanh điệu có thể hoán chuyển trật
tự trước sau tùy thuộc vào đặc trưng ngữ
nghĩa của đơn vị lái. Về phương diện
quan hệ ngữ âm và chữ viết, tuy có sự
khác biệt trong chừng mực giữa con chữ
thể hiện và thanh âm, mà hầu hết người
Nam Bộ đều nhận ra, nhưng sở dĩ có hiện
tượng này là bởi vì trong khuynh hướng
phát âm của họ có khá nhiều âm vị được
thể hiện và tri nhận dưới dạng đồng âm,
như: âm “-o-” và “-ô-”, các phụ âm cuối
“-n” và “-ng”; “-t” và “-c” được thể hiện
bằng chữ viết, “thanh hỏi” và “thanh ngã”
được thể hiện bằng chữ viết…
3. KẾT LUẬN
Thể loại câu đố dân gian Việt Nam nói
chung, câu đố dân gian Nam Bộ nói riêng,
vừa có những điểm chung vừa có sự khác
biệt. Điểm chung là sự nhạy bén trong tư
duy nhận thức của người dân khi xây
dựng câu đố và tìm lời giải cho câu đố, dù
dưới hình thức liên tưởng nào, dù thuộc
địa hạt tư duy chính xác (khoa học) hay
tư duy hình tượng (nghệ thuật), dù thuộc
bình diện tư duy hay bình diện ngôn ngữ.
Mặt khác, ở bình diện nghệ thuật thơ, nó
còn thể hiện tài ứng khẩu thành thơ của
các tác giả dân gian. Đồng thời, ở bình
diện lưu truyền, các tác phẩm này luôn
Ngoài ra, cần ghi nhận thêm hiện được tu sửa, gọt giũa để trở thành những
tượng chơi chữ ở hai từ chỉ khác nhau ở sáng tác dân gian có giá trị cao cả về mặt
phụ âm đầu, như trường hợp câu đố (con nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Điểm
ốc): “Vốn là con cốc bay cao,/ Mất đầu khác biệt là ở dữ liệu câu đố, tư duy của
thành giống dưới ao ăn bùn.”.
người dân Nam Bộ là sự phản ánh thực tế
vùng miền, mang nét thực tiễn cao; còn
mức độ “ hoang sơ”, “thô ráp” thì chắc là
cao hơn câu đố Bắc Bộ, bởi ca dao Bắc
Bộ vốn được nhìn nhận có tính “mượt
mà” và “thướt tha” hơn. Nhưng trong
thưởng thức nghệ thuật, nghệ thuật văn
chương dân gian nói riêng, vấn đề là ở
nhu cầm thưởng thức thẩm mỹ ở mỗi
vùng miền, hơn là việc lượng giá ở những
thuộc tính vừa nêu.
Các câu đố thể hiện dưới dạng chơi
chữ nói chung, thường khó đoán định hơn
nếu người giải không chú tâm vào bình
diện này. Tuy nhiên, việc xác lập hình
thức câu đố dưới dạng chơi chữ, một mặt
vẫn đảm bảo hai phương diện nội dung và
nghệ thuật của một bài thơ. Mặt khác, nó
thể hiện sự thông minh, hóm hỉnh và khả
năng sử dụng thành thạo tiếng Việt của
người ra câu đố, và của người nghĩ ra
được lời giải đúng. Nên nhớ rằng, hiện
tượng nói lái trong tiếng Việt, người dân
vùng miền nào cũng biết và sử dụng. Có
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ninh Viết Giao, 2008. Câu đố
Việt Nam. NXB Văn học.
225
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 12 - 2021
2. Triều Nguyên, 2011.Câu đố
người Việt. NXB Lao động.
5. Huỳnh Công Tín (chủ biên),
2021. Văn học dân gian An Giang.
NXB Giáo dục.
3. Nhiều tác giả, 2007. Tìm hiểu mô
hình câu đố. NXB ĐHSP Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Trung, 2007. Câu đố
Việt Nam, NXB Tổng hợp TP.HCM.
4. Từ Phát, 1971. Thai đố phổ thông
dẫn giải. NXB Văn học.
THE ASSOCIATIVE THINKING IN SOUTHERN QUIZZES
Pham Thu Hang* and Nguyen Thi My Nhung
Faculty of Literature and Linguistics, Tay Do University
(*Email: phamthuhang80@gmail.com)
ABTRACT
Human thinking is often formed on the basis of two types of association: Comparisons and
logic. At the same time, in communication, these two forms of association are based on the
accurate thinking and the image thinking that the text of the science or art field requires.
However, artistic texts emphasize the way of expressing images, not disregarding scientific
accuracy. With the "puzzle" genre, a popular folk art, puzzle makers and puzzle solvers are
all based on the principle of running cognitive thinking and trying low and high together.
This article aimed to analyze the associative bases that created the puzzle form. Among these,
in addition to the two associations based on the principle of thinking which was correct
thinking and human figurative thinking, there were additional linguistic associations but this
association belongs to the category of language associated with the form of language used
by the community and that was the form of Southern dialect.
Keywords: Art, association, perception, quizze, similarity
226
Bạn đang xem tài liệu "Tư duy liên tưởng trong câu đố Nam Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tu_duy_lien_tuong_trong_cau_do_nam_bo.pdf