Dấu ấn văn hóa nông nghiệp và sông nước trong thành ngữ - tục ngữ Khmer Nam Bộ

Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên 49  
DẤU ẤN VĂN HÓA NÔNG NGHIỆP VÀ SÔNG NƯỚC  
TRONG THÀNH NGỮ - TỤC NGỮ KHMER NAM BỘ  
Phạm Tiết Khánh *  
Tóm tắt  
Trong nội dung bài báo, chúng tôi bước đầu tìm hiểu những hình ảnh mang dấu ấn của nền văn  
hóa nông nghiệp và sông nước trong thành ngữ - tục ngữ Khmer Nam Bộ. Đó là những hình ảnh quen  
thuộc, gần gũi trong sản xuất nông nghiệp: cây lúa, hoa màu, các con vật; những dòng sông, con rạch,  
các phương tiện di chuyển trên sông,… Những hình ảnh này không chỉ làm cho nội dung phản ánh của  
thành ngữ - tục ngữ Khmer Nam Bộ phong phú hơn mà còn góp phần khẳng định bản sắc văn hóa người  
Khmer Nam Bộ.  
Từ khóa: Văn học dân gian Khmer Nam Bộ, thành ngữ - tục ngữ Khmer Nam Bộ, người Khmer.  
Abstract  
ThispaperistoinitiallyndoutimagesmarkedbytheagriculturalandriveryculturethroughSouthern  
Khmer idioms and proverbs. Those images are demonstrated closely to agricultural production: rice,  
vegetables, animals; rivers, canals, transportation on river. These images not only reflect the enrichment  
of the Southern Khmer idioms and proverbs but also affirm the Southern Khmer cultural character.  
Key words: Southern Khmer folklore, Southern Khmer idiom - proverb, Khmer people.  
1. Mở đầu  
Là một trong bốn dân tộc cộng cư trên vùng đất  
Điểm chung của thành ngữ - tục ngữ là sự diễn  
đạt ngắn gọn, cô đọng; ý nghĩa hay và hình ảnh  
đẹp. Tuy nhiên, bên cạnh nét chung, mỗi dân tộc  
có cấu trúc, tư duy và chất liệu riêng để biểu đạt  
nội dung triết lý sống. Là một thể loại văn học dân  
gian, thành ngữ - tục ngữ Khmer là công cụ phản  
ánh kết quả tư duy, đồng thời in đậm dấu ấn nền  
văn hóa nông nghiệp lúa nước và mang nét riêng  
so với văn hóa của các dân tộc khác. Điều này thể  
hiện qua nhiều yếu tố. Trong phạm vi bài viết này,  
chúng tôi đề cập đến yếu tố hình ảnh để tìm ra  
dấu ấn văn minh lúa nước và văn minh sông nước  
trong nội dung phản ánh của thành ngữ - tục ngữ  
Khmer Nam Bộ.  
Nam Bộ (Kinh, Khmer, Hoa, Chăm), người Khmer  
sinh cơ lập nghiệp lâu đời tại đây và sinh sống chủ  
yếu bằng nghề trồng lúa, hoa màu, khai thác thủy  
sản và nghề thủ công truyền thống. Đời sống sản  
xuất vật chất này đã hình thành nên những giá trị  
văn hóa tinh thần in đậm bản sắc dân tộc.  
Người Khmer Nam Bộ đã đóng góp đáng kể  
cho nền văn học dân gian Việt Nam qua các thể  
loại chứa đựng các giá trị văn hóa phong phú, đa  
dạng, gắn chặt với quá trình lao động sản xuất, cải  
tạo thiên nhiên ở vùng sông nước phương Nam.  
Có thể nói, văn học dân gian Khmer đã vẽ nên  
một bức tranh sinh động, đầy màu sắc về đời sống  
sinh hoạt của người Khmer Nam Bộ và qua đó nền  
văn hóa Khmer được biểu hiện một cách cô đọng,  
chân thực nhất: “Bản sắc văn hóa Khmer là những  
biểu hiện cơ bản nhất, đặc sắc nhất về tinh thần,  
về vật chất của người Khmer” (Nguyễn Mạnh  
Cường, Trường Lưu). Trong đó, thành ngữ - tục  
ngữ Khmer đã tái hiện cảnh sắc thiên nhiên của  
miền nhiệt đới đặc trưng, mang dấu ấn nền văn hóa  
nông nghiệp và sông nước. Tư duy liên tưởng, thói  
quen lựa chọn hình ảnh trong thành ngữ - tục ngữ  
của người Khmer Nam Bộ cũng đã góp phần quan  
trọng thể hiện bản sắc văn hóa riêng biệt này. Cái  
riêng này chính là dấu ấn văn hóa - dân tộc.  
2. Nội dung  
Thành ngữ - tục ngữ là thể loại gần gũi và quen  
thuộc bởi nó gắn liền với đời sống con người thông  
qua lời ăn tiếng nói trong sinh hoạt hằng ngày, nhất  
là trong lao động sản xuất. Thành ngữ - tục ngữ  
được sản sinh ra từ thực tế lao động và có giá trị  
vận dụng. Trong đời sống và tư duy, thành ngữ -  
tục ngữ hướng dẫn chúng ta kinh nghiệm về cách  
nhìn nhận, bình giá, ứng xử và thực hành các hiện  
tượng trong tự nhiên cũng như trong đời sống xã  
hội. Thành ngữ - tục ngữ thường được diễn đạt  
một cách ngắn gọn nên dễ thuộc dễ nhớ, thông qua  
các hình ảnh bình dị. Thành ngữ - tục ngữ Khmer  
* Tiến sĩ, Hiệu trưởng Trường Đại học Trà Vinh  
49  
Soá 12, thaùng 3/2014  
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên  
50  
Nam Bộ cũng có những đặc điểm chung đó. Tuy tiết, khí hậu qua hiện tượng tự nhiên như: mưa,  
nhiên, nội dung phản ánh cũng như ngôn ngữ diễn nắng, gió, … người Khmer đã rút ra những nhận  
đạt thì có những điểm khác biệt, do sự chi phối xét, những phán đoán về thời tiết như “Làm ruộng  
bởi điều kiện sinh sống, đặc điểm văn hóa xã hội kịp lúc có mưa”; “Xuống giống kịp thời vụ, như ca  
mang tính đặc thù vốn có của người Khmer Nam hát kịp nhịp đàn”. Ngoài ra, người nông dân còn  
Bộ. Qua khảo sát, tìm hiểu về thành ngữ - tục ngữ quan sát con vật để dự đoán thời tiết “Kiến bay thì  
Khmer Nam Bộ, chúng tôi nhận thấy những dấu ấn trời mưa”. Có thể thấy các con vật được quan sát  
phản ánh nền văn hóa lúa nước và sông nước một thường là các con vật sống trong tự nhiên, không  
cách rõ nét và sinh động qua đời sống sản xuất, được con người nuôi nấng, chăm sóc. Vì vậy, khi  
sinh hoạt nông nghiệp của người Khmer Nam Bộ. thời tiết sắp thay đổi thì cơ thể chúng sẽ có những  
phản xạ nhằm thích nghi với hoàn cảnh mới. Đó  
2.1. Dấu ấn văn minh nông nghiệp trong thành  
ngữ - tục ngữ Khmer Nam Bộ  
là bản năng sinh tồn của mỗi loài. Sự phản xạ của  
các con vật đã được con người quan sát, ghi nhận  
rồi đúc kết thành kinh nghiệm dự đoán thời tiết  
quý báu. Như vậy, với vốn tri thức tự nhiên, những  
kinh nghiệm dự đoán thời tiết, khí hậu tuy còn sơ  
khai, được sinh ra trong thời kì khoa học kĩ thuật  
còn thô sơ nhưng đã giúp đỡ con người rất nhiều  
trong việc phát triển sản xuất và phục vụ đời sống.  
Nước ta có nền văn minh nông nghiệp lúa nước  
lâu đời, cùng với người Kinh, Hoa và Chăm, người  
Khmer sản xuất nông nghiệp lấy nghề trồng lúa là  
chính. Trong quá trình sản xuất, người Khmer có  
sự gắn bó mật thiết với các yếu tố ảnh hưởng đến  
sản xuất như các sự vật hiện tượng tự nhiên, cây  
trồng: lúa, hoa màu và các con vật. Tất cả các yếu  
tố đó đã được thể hiện trong thành ngữ, tục ngữ  
Khmer Nam Bộ bằng những hình ảnh khác nhau.  
Trong sản xuất nông nghiệp, người nông dân  
nói chung rất cần đến kỹ thuật canh tác: “Hành  
làm giồng, mướp làm giàn”; “Làm vườn phải biết  
chăm sóc, làm ruộng phải biết xem cỏ”, “Trồng  
dưa phải biết đào giồng, trồng hành phải biết nhổ  
cỏ”;… Tính cần mẫn của người lao động cũng là  
thước đo cho sản phẩm thu được sau mỗi vụ mùa.  
Sản xuất nông nghiệp tuy có vẻ đơn giản vì người  
nông dân thời xưa hầu như sinh ra và lớn lên đều  
có thể làm ruộng, làm rẫy được. Tuy nhiên, kết quả  
thu về còn phụ thuộc rất nhiều vào những bài học  
mà chính họ đã trải qua và đúc kết được từ thực  
tế. Những bài học này thật sự rất quý, phản ánh  
được tính cách chịu thương chịu khó, lối tư duy,  
nếp nghĩ đơn giản nhưng thực tế và hiệu quả của  
người nông dân nói chung và người Khmer Nam  
Bộ nói riêng trong quá trình sản xuất và tự làm  
giàu vốn hiểu biết cho bản thân mình.  
2.1.1. Hình ảnh cây trồng nông nghiệp  
Trải qua quá trình canh tác lâu dài gắn với thực  
tế quan sát, chiêm nghiệm và suy ngẫm, người  
Khmer Nam Bộ đã mô tả khá chi tiết và đúc kết  
những kinh nghiệm cho từng công đoạn trong quá  
trình sản xuất cây lúa cũng như canh tác hoa màu.  
Về kinh nghiệm trong việc chọn lựa cây trồng,  
thành ngữ - tục ngữ Khmer nhấn mạnh đến sự phù  
hợp của từng loại cây trồng với vốn đất đai sẵn có:  
Đất nhiều làm ruộng, đất ít trồng rau”; “Trồng  
rau giồng ngắn, trồng cải giồng dài”;…  
Bên cạnh đó, thành ngữ - tục ngữ Khmer cũng  
chú ý nhiều đến việc chọn giống cây trồng, nhất là  
trong trồng lúa. Trước đây, hầu hết người Khmer  
đều làm ruộng cấy, do đó khâu làm mạ và chọn  
giống là rất quan trọng: “Làm lúa trúng mùa do  
giống tốt gieo ra; nên tìm giống tốt, gieo sạ lưu  
lại”. Việc chọn được giống tốt, đất tốt sẽ cho mạ  
tốt: “Mạ tốt do đất, vợ khôn để tiếng cho chồng”.  
Ngoài ra, dấu ấn của nền văn hóa nông nghiệp  
lúa nước còn được biểu hiện ở kinh nghiệm đánh  
giá năng suất của vụ mùa, bảo quản hạt lúa và hơn  
hết là thái độ ứng xử với thành quả mà người lao  
động đã làm ra: “Ngẩng lép, cúi chắc hạt”; “Lúa  
gục xuống khi chín thì được mùa, lúa thẳng ngọn  
Lao động nông nghiệp, ngư nghiệp vốn phụ thì mất mùa”; “Củ nhiều nứt giồng”; Giống  
thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết, khí hậu. người thấp hèn đến đâu cũng không bỏ tình cha  
Vì thế người nông dân luôn theo dõi, quan sát mẹ. Lời nói của con người dài hơn đường đi, lúa  
các hiện tượng thời tiết, chú ý sự diễn biến của để lâu năm hư gạo”; “Cơm nguội cũng là cơm,  
thời tiết từng ngày để kịp thời có sự điều chỉnh đàn bà góa cũng là đàn bà”; “Ăn cơm của ai phải  
thích hợp trong sản xuất. Qua quá trình sản xuất biết giúp đỡ người đó”; “Đi chơi nhà người ta dù  
lâu dài, nhân dân ta đã tích luỹ được vốn kinh gần xa, người ta mời cơm phải ráng nhịn. Gạo nấu  
nghiệm phong phú về quy luật diễn biến của thời người ta đã tính, chỉ đủ miệng ăn trong gia đình”;  
50  
Soá 12, thaùng 3/2014  
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên 51  
Ngược xuôi cơm phước thành cơm khất thực”; … dưỡng trong nhà đã được đồng bào Khmer ghi  
Hay mượn hình ảnh nông sản để nói đến tính cách nhận và đưa vào thành ngữ - tục ngữ Khmer với  
tốt xấu của con người và còn khuyên dạy chúng ta những lí giải độc đáo, thú vị. Đó không dừng lại  
có cách hành xử đúng đắn trong cách ăn, nếp ở: là kinh nghiệm được nhìn thấy, nghe thấy từ các  
Lù khù cạy lủng nồi cơm”; “Đừng lấy cơm trét giác quan bên ngoài mà sâu xa hơn là những suy  
miệng dê”; “Bắt cá hai tay là điều tham, đổ gạo ngẫm từ chiều sâu văn hóa, từ tiềm thức của một  
lấy trấu ngăn không được, chèo ghe lên núi cố cho tộc người.  
ngược, cầu phật lại đi lạy cơm cúng”;….  
2.1.3. Hình ảnh nông cụ  
2.1.2. Hình ảnh con vật trong sản xuất nông nghiệp  
Các loại công cụ thô sơ được người nông dân  
Qua thực tế quan sát, hoạt động sản xuất nông Khmer Nam Bộ chế tạo và sử dụng phổ biến trong  
nghiệp không chỉ có con người mà còn có sự tham đời sống sinh hoạt cũng như trong sản xuất nông  
gia của các con vật. Từ lâu, người Khmer đã biết nghiệp chủ yếu là dao, búa, rìu,... Hình ảnh cây rìu  
dùng súc vật vào việc canh tác. Hình ảnh những xuất hiện khá nhiều với cách tri nhận độc đáo của  
con vật ấy được thể hiện một cách sinh động, người dân Khmer như: “Mười cây rìu chêm chỉ  
tự nhiên và mang nhiều ý nghĩa trong bức tranh một miếng gỗ”, “Rìu lung lay tại cán”,“Rìu ngang  
lao động của người Khmer Nam Bộ. Trong đó, tại cán, con hư tại mẹ”; “Cây búa xài được nhờ  
những con trâu, con bò không chỉ là phương tiện có cán”;… Nhưng đa số những hình ảnh này được  
trong sản xuất mà còn là người bạn đồng hành, là  
phương tiện phản ánh của người nông dân Khmer  
trong sản xuất, trong sinh hoạt hằng ngày: “Muốn  
sống dai phải cực như trâu, còn sống khỏe như heo  
sẽ mau chết”,“Cỡi trâu qua sình, dễ hơn lội qua  
nước”,“Bò có dây, ruộng có bờ”, “Mất bò mới  
lo làm rào đến mùa thi mới ráng đi học”, “Giận  
bò đánh xe; “Đàn gảy tai trâu”;… Ngoài ra,  
hình ảnh con voi cũng xuất hiện rải rác trong vài  
câu tục ngữ của người Khmer Nam Bộ: “Hai vợ,  
ba bò, một voi làm khổ bản thân”, “Việc gì cũng  
phải cân đừng cố thân như voi”,.. nhưng lại phổ  
biến trong thành ngữ - tục ngữ của người Khmer ở  
Campuchia, nguyên do có thể vì Campuchia là đất  
nước có địa hình nhiều đồi núi, con voi trở thành  
một phương tiện quan trọng phục vụ sản xuất, sinh  
hoạt của người nông dân nơi đây.  
dùng để giúp ta liên tưởng so sánh với các sự vật  
khác trong đời sống: “Bén như dao chém”, “Như  
dao với thớt”, “Như búa với đe”; “Đao bén bén  
thật ở trong vỏ, kiến thức có thật ở trong sách”;…  
2.2. Dấu ấn văn hóa sông nước trong thành ngữ  
- tục ngữ Khmer Nam Bộ  
2.2.1. Hình ảnh kênh rạch, dòng sông và con nước  
Nam Bộ nói chung, Đồng bằng sông Cửu Long  
nói riêng có kiến tạo tương đối mới trên một vùng  
châu thổ với cảnh quan điển hình của một vùng  
sinh thái sông nước. Lịch sử nền văn minh sông  
nước ở Đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu từ rất  
sớm, từ thiên niên kỷ thứ I trước Công nguyên. Cư  
dân vùng đất này đã tạo dựng nền văn minh Phù  
Nam rực rỡ – một điển hình văn minh sông nước  
hạ lưu Mêkông trong quá khứ. Văn minh Đồng  
bằng sông Cửu Long được mệnh danh là văn minh  
sông nước với ý nghĩa đầy đủ và đa dạng của nó.  
Và hình ảnh kênh rạch là một trong những yếu tố  
làm nên văn minh sông nước.  
Còn trong chăn nuôi, ta bắt gặp trong thành ngữ  
- tục ngữ Khmer hình ảnh của những con vật nuôi  
trong gia đình: “Gà đẻ trên bồ lúa”, “Gà nào đẻ gà  
đó cục tác”, “Chó cắn phải tìm chủ, bò húc phải  
tìm quan”, “Giống vịt không quen leo giàn, giống  
thú rừng không ở trong sóc”;… Ngoài ra, hình ảnh  
những con vật này cũng mang ý nghĩa biểu trưng  
cho những thói hư tật xấu và qua đó là những lời  
khuyên cho lối sống, cách nghĩ: “Giống vịt vẫn là  
vịt, giống gà vẫn là gà”; “Đầu gà đít vịt”; “Lúc  
bệnh nặng hứa cúng voi, khi hết bệnh mang hột gà  
đi cúng”;…  
Việc thu hoạch lúa của người Khmer Nam Bộ  
diễn ra vào cuối mỗi mùa nước lụt nên cư dân phải  
kết gỗ làm thành ghe, xuồng, bè để di chuyển theo  
những dòng nước nhất định. Từ đó tạo thành luồng  
lạch, khởi đầu cho việc hình thành hệ thống đường  
nước mà trong mùa khô chúng là con đường, sang  
mùa nước lại trở thành dòng kinh: “Nước chảy  
theo kênh, con thỏ chạy theo dòng”; “Có kênh  
nước mới chảy”;…  
Với những hình ảnh phong phú về loài vật trong  
thành ngữ - tục ngữ Khmer đã cho thấy khả năng  
bao quát thế giới khách quan của dân gian. Từ các  
con vật trên đồng ruộng đến các con vật được nuôi  
Trên một dòng sông có thể có nhiều khúc, mỗi  
khúc như vậy có nhiều dòng: “Ngay thành sông,  
51  
Soá 12, thaùng 3/2014  
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên  
52  
cong thành khúc”; “Một khúc củi giữa dòng còn cũng mang một ngụ ý về đời sống của con người:  
có lợi hơn nói dóc”. Vì mỗi dòng có đặc điểm khác Mười sông không bằng một biển”.  
nhau, cho nên phải biết cách xử lí thích hợp với  
từng tình huống, hoàn cảnh: “Đi sông phải theo  
2.2.2. Hìnhnhcácphươngtiệndichuyntnsông  
Trôi theo dòng nước trên những kênh rạch và  
sông ngòi chằng chịt ở Nam Bộ là hình ảnh của  
những chiếc xuồng, ghe, tàu, đò. Đó là những  
phương tiện không thể thiếu để giúp người nông  
dân Khmer Nam Bộ di chuyển, chuyên chở nông  
sản, giao lưu mua bán: “Buôn dưới nước nhờ ghe,  
buôn trên cạn nhờ xe”.  
dòng uốn”; “Đến xứ người phải theo tập tục”;  
“Vô sông theo khúc, vô sóc theo xứ”;… Tác giả  
dân gian cũng không quên nhắc nhở con người  
rằng sông không phải lúc nào cũng hiền hòa mà  
đôi khi lại rất hiểm trở, là mối đe dọa đối với con  
người: “Không biết bơi đừng lội xuống sông”.  
Hình ảnh bùn, sình dưới đáy sông hay ao hồ  
cũng được người dân Khmer Nam Bộ nhắc đến  
một cách sinh động và hóm hỉnh: “Như bắt con  
lươn thảy bùn”; “Có sình vì đất, nghĩ nông sẽ trở  
nên dại”; “Danh dự nhà gái như tấm vải rớt xuống  
bùn, Danh dự nhà trai như vàng rớt xuống bùn”;  
“Gái đẹp như mặt trăng, tính tình không đẹp cũng  
như con chó dưới bùn”;…  
Xuồng là thuyền nhỏ không có mái che và  
thường đi kèm theo thuyền lớn. Những người tin dị  
đoan cho rằng khi bước xuống xuồng không được  
bước ở đằng lái: “Xuồng ghe đừng bước ngay lái,  
vào rừng đừng giữ ở lều”. Và nhân dân Khmer  
dựa vào sự nguyên vẹn của chiếc xuồng để đánh  
giá xuồng tốt - xấu: “Xuồng bể là xuồng tốt, xuồng  
cụt (xấu) là xuồng còn”. Hình ảnh chiếc xuồng  
trong thành ngữ - tục ngữ Khmer cũng mang ý  
nghĩa biểu trưng cho sự bếp bênh, lệ thuộc, sự  
bạc bẽo,…: “Lênh đênh như xuồng không neo”;  
“Người bơi xuồng đừng bỏ cây dầm, người theo  
đạo đừng bỏ chùa”, “Nếu không giúp bơi chèo  
đừng lấy chân cản nước”; “Kéo xuồng đừng cho  
gợn sóng; bắt cá đừng cho đục nước”; “Chớ khinh  
việc nhỏ, lỗ hở chìm xuồng”; “Thà mất cha đừng  
để mất mẹ, thà chìm xuồng giữa sông đừng để lửa  
cháy nhà”;…  
Gắn với những con kênh, luồng lạch là dòng  
nước. “Nước” trong thành ngữ - tục ngữ Khmer  
Nam Bộ không chỉ là yếu tố quan trọng trong sản  
xuất nông nghiệp: “Làm ruộng nhờ nước, đánh  
giặc nhờ cơm”; “Hành xem nước, dưa hấu xem  
dây”;… mà còn mang nhiều ý nghĩa biểu trưng:  
- Nước đục - nước trong: “Cây trái nhiều hư lá,  
cá nhiều nước đục”; “Nước trong gội đầu, nước  
đục rửa chân”; Nước trong khe, nếu đục là do  
sóng vỗ”;…  
- Nước sâu: “Nước sâu luôn có suối”.  
Ngoài hình ảnh chiếc xuồng, hình ảnh chiếc  
ghe, chiếc tàu trong thành ngữ - tục ngữ Khmer  
cũng thật thú vị. Ghe là loại thuyền gỗ có mui.  
Nó không chỉ là phương tiện di chuyển mà còn là  
phương tiện để người dân buôn bán. Còn tàu là tên  
gọi chung của phương tiện vận tải hoạt động bằng  
máy móc phức tạp. Vì vậy, tàu lớn hơn ghe, xuồng  
nên thường có thể kéo ghe xuồng. Những đặc điểm  
trên giúp cho những hình ảnh này mang ý nghĩa  
biểu trưng cho thân phận con người: “Buôn dưới  
nước nhờ ghe, buôn trên cạn nhờ xe”; Lênh đênh  
như ghe giữa sông”; “Ghe nhờ tàu kéo”; “Cầm  
mái chèo phải biết hướng”; “Tàu lớn muốn vào  
bờ phải nhờ bè”;…  
- Nước xuống - nước lên: “Nước lên cá ăn kiến,  
nước xuống kiến ăn cá”.  
- Nước mát - nước nóng: “Nước mát gom cá,  
nước nóng cá đi”.  
- Nước ròng - nước lớn: “Nước lớn thì bìm  
bịp kêu”.  
Ngoài ra, hiện tượng “nước chảy” cũng được  
người dân Khmer mô tả với nhiều sắc thái: “Nước  
chảy không bao giờ mệt, Phật tổ không bao giờ  
giận”; Nước chảy xuống thấp, gò kêu mấy, nước  
cũng không lên được”; Có rãnh nước mới chảy,  
có bóng dáng chó mới sủa”; Nước chảy không  
đứt khúc”; “Nước dâng phước vua;… Cho dù  
nước có thể tồn tại trong khe, rãnh, kênh,… nhưng  
môi trường sinh hoạt phổ biến hơn cả của chúng là  
sông, biển. Vì vậy, hình ảnh sông, biển cũng được  
người dân Khmer Nam Bộ ghi nhận một cách tỉ mỉ  
và sống động: “Bờ sông bờ biển xa thật là xa nhưng  
đi tới; bờ trí tuệ, lòng người xa thật đi không tới,  
hiểu không hết”. Và sự so sánh giữa sông và biển  
Trong nhiều phương tiện vận chuyển trên sông  
nước, thuyền, đò là những hình ảnh ẩn dụ thường  
thấy trong ca dao. Thuyền là phương tiện giao  
thông nhỏ trên mặt nước hoạt động bằng sức người,  
sức gió. Còn đò là thuyền nhỏ chở khách trên sông  
nước, đi theo một tuyến nhất định. Đò thường đi  
liền với bến, vì mỗi con đò đều có bến đỗ. Trong  
52  
Soá 12, thaùng 3/2014  
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên 53  
thành ngữ - tục ngữ Khmer Nam Bộ, thuyền, bến trường nước và là mối đe dọa đối với con người  
và đò cũng không thể vắng mặt:“Thuyền đi bến ở”; và những loài vật khác bởi tính hung hăng và xảo  
“Thuyền to buồm to”; “Đò đi bến còn ở lại”;…  
quyệt của nó. Từ đặc điểm này, người ta liên tưởng  
đến tính cách của con người. Người Việt thường  
nói: “Nước mắt cá sấu” để chỉ sự giả dối; còn với  
người Khmer, bên cạnh nét nghĩa đó, thành ngữ -  
tục ngữ Khmer còn dùng hình ảnh cá sấu còn chỉ  
sự quan trọng, tốt đẹp: “Đừng có dại tin cá sấu cho  
quá giang”; “Đừng dạy cho chim bay, đừng dạy  
sấu lội nước”; Thà để cho cá sấu nuốt, không để  
cá lòng tong rỉa”; “Cá sấu quên bưng”;...  
2.2.3. Hình ảnh thực vật, động vật sống trong môi  
trường nước  
Nói đến văn hóa sông nước không thể thiếu các  
loài thực vật cùng tồn tại trong quần thể sinh vật  
phong phú đa dạng nơi đây. Tuy nhiên, qua khảo  
sát, thực vật được phản ánh trong thành ngữ - tục  
ngữ Khmer không nhiều. Chúng tôi mới tìm thấy  
hai loại thực vật sống trong môi trường nước được  
người Khmer Nam Bộ nhắc đến là bông sen, bông  
súng với đặc điểm: “Bông sen dù ở trong bùn vẫn  
đẹp đẽ”, “Lấy bông súng đo nước sâu, xem cá tính  
đánh giá dòng họ”. Loại thực vật này gắn bó với  
người Khmer trong đời sống ẩm thực và sinh hoạt  
cho đến ngày hôm nay.  
Hình ảnh các loài cá lần lượt xuất hiện trong  
thành ngữ - tục ngữ Khmer không đơn giản chỉ là  
liệt kê ra tên của các loài cá, môi trường phù hợp  
cho cá hay cách thức đánh bắt mà thông qua từng  
loài cá để chỉ đặc điểm, bản chất của con người:  
“Chết vì lời nói như cá sặc”; “Cá duối sình trở  
thành cá nướng”; “Xếp đặt như đầu cá bống”;  
Nước mát gom cá, nước nóng cá đi”; “Có nước  
có cá”; “Ao mát nhiều cá, cây mục nhiều mối”;  
“Đất cao mối ở, nước xuống cá nằm hang”;Cá  
còn được phân loại ở dạng thành phẩm, điều đó  
không chỉ nói lên kinh nghiệm trong việc chế biến  
sản phẩm từ cá: “Cá tươi đừng muối chung với cá  
thối” mà còn phản ảnh những điều phi lý, ngược  
đời: “Cá khô mà muốn đẻ, tre khô mà muốn mọc  
măng”. Như vậy, thông qua lối nói hình tượng,  
chúng ta có thể rút ra những bài học áp dụng cho  
chính đời sống sinh hoạt, ứng xử của mình: “Kéo  
Trong khi động vật sống trong môi trường nước  
lại xuất hiện trong thành ngữ - tục ngữ Khmer khá  
phong phú. Trước tiên, con vật xuất hiện nhiều  
trong thành ngữ - tục ngữ Khmer phải kể đến là  
con ếch, lươn,… Ếch là loài lưỡng cư, có thể sống  
trên cạn lẫn dưới nước. Chúng thường trú ngoài  
ruộng lúa, trong ao, gốc sen, dưới giếng. Hình ảnh  
con vật này thường biểu trưng cho những điểm  
tiêu cực, hạn chế trong tư duy, tính cách, ý thức  
của con người: “Con ếch trong ao tưởng trời bằng  
nấp nồi”; “Ếch gặp mưa”; “Đừng chết như rắn,  
đừng sống như ếch”; “Con ếch ở gần gốc sen, xuồng đừng cho gợn sóng”, “Bắt cá đừng cho đục  
nước”; “Bắt cá hai tay là điều tham, đổ gạo lấy  
trấu ngăn không được, chèo ghe lên núi cố cho  
ngược, cầu Phật lại đi lạy cơm cúng”; “Nước lên  
cá ăn kiến, nước xuống kiến ăn cá”; “Con cá dưới  
không biết mùi thơm của hoa sen, con ong tuy xa  
các loài hoa nhưng vẫn hút được nhụy”; “Con ếch  
ở trong giếng nước, tưởng trời cao chỉ bằng nắp  
vung, kẻ không có tri thức, cứ cho mình là người  
giỏi nhất”;… Con lươn cũng có môi trường sống chân không bắt, lại đi bắt con cá ở xa”; “ Một con  
dưới nước nhưng không sống trong nước mà sống cá hôi làm hôi cả giỏ”; “Người thấy lợi mà không  
ở bùn, sình và dân gian dựa vào đặc điểm sinh học  
của con vật này để ngầm nhắc nhở con người nhận  
thức đúng về giá trị thực của bản thân để có lối  
sống phù hợp: “Con lươn đẻ dưới bùn lầy”; “Như  
bắt con lươn thảy bùn”; “Sai lươn chui xuống  
sình”; “Lươn ngắn mà chê trạch dài;…  
thấy hại như cá thấy mồi mà không thấy lưỡi câu”;  
“ Cá được cá nhỏ, cá mất cá to”;…  
Ngoài ra, những động vật sống trong môi  
trường sông nước còn được người Khmer Nam Bộ  
kể tên như: đỉa, rùa, cua, tôm,…: “Đỉa cắn đừng  
cắn đỉa”; “Rùa chọi với voi”; “Thông minh như  
Hình ảnh cá xuất hiện rất nhiều trong thành thỏ, dốt như le”; “Ghiền như cua lùa phân, như  
ngữ - tục ngữ Khmer Nam Bộ. Hình ảnh cá được bắt cua bỏ trên nia”; “Ngang như cua”;Tất cả  
người dân phản ánh với nhiều đặc điểm và dáng hình ảnh đó tạo nên bức tranh đa dạng về các sản  
vẻ khác nhau. Trong công cuộc khai khẩn vùng vật vùng sông nước. Đằng sau bức tranh đầy màu  
đất Nam Bộ hoang sơ, con người nơi đây đã phải sắc ấy ấy là những kinh nghiệm quý giá mà dân  
sống trong môi trường: “Xuống sông gặp cá sấu, gian Khmer tích lũy được để truyền từ đời này  
lên bờ gặp cọp”. Cá sấu là động vật sống trong môi sang đời khác.  
53  
Soá 12, thaùng 3/2014  
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên  
54  
3. Kết luận  
Tác giả dân gian Khmer Nam Bộ đã lựa chọn  
2.2.4. Hình ảnh về công cụ, phương tiện đánh bắt  
Ngoài nghề trồng trọt, chăn nuôi, việc đánh bắt  
thủy sản cũng là một trong những nghề mà người  
dân Khmer chú trọng. Qua khảo sát các câu thành  
ngữ - tục ngữ Khmer, ta thấy có hai dụng cụ đánh  
bắt được sử dụng phổ biến là lờ và cần câu. Với  
công cụ thô sơ tự chế này, người Khmer đã biết  
tận dụng sao cho mang lại hiệu quả cao trong việc  
đánh bắt: “Đặt lờ phải rào gai, xẻ thịt dâng cọp  
mới ở sóc được”; “Người thấy lợi mà không thấy  
hại như cá thấy mồi mà không thấy lưỡi câu”;  
“Thẩy cần câu qua núi”;…. Thiên nhiên đã ưu ái  
cung cấp cho con người Nam Bộ nguồn thủy sản  
phong phú. Bằng những phương tiện thô sơ, người  
nông dân Khmer đã khai thác được nguồn lợi thủy  
và sử dụng hệ thống các hình ảnh quen thuộc và  
thích hợp để lưu truyền vốn kinh nghiệm sống  
phong phú của mình trong lao động sản xuất qua  
những câu thành ngữ, tục ngữ. Những hình ảnh  
vừa mang tính tả thực vừa mang tính biểu trưng  
giúp ta hiểu thêm đời sống lao động nông nghiệp  
cũng như những tâm tư tình cảm, những cách ứng  
xử đúng đắn của người nông dân Khmer với tự  
nhiên và với con người trong đời sống xã hội. Có  
thể nói, t h à n h n g ữ - t ụ c n g ữ c ủ a n g ư ờ i K h m e r  
Nam Bộ đã đóng vài trò quan trọng trong việc tái  
hiện lại một nền văn hóa nông nghiệp đặc trưng  
của vùng sông nước Nam Bộ. Từ đó, góp phần tạo  
sản sẵn có trong tự nhiên để phục vụ cho bữa ăn nên sự phong phú, đa dạng cho kho tàng văn học  
hằng ngày, kiếm thêm thu nhập nuôi sống gia đình dân gian Khmer Nam Bộ nói riêng và kho tàng văn  
và xây dựng một đời sống tinh thần phong phú.  
học dân gian Việt Nam nói chung.  
Tài liệu tham khảo  
Chu Xuân Diên (cb). 2002. Văn học dân gian Sóc Trăng. NXB TP. Hồ Chí Minh.  
Chu Xuân Diên (cb). 2005. Văn học dân gian Bạc Liêu. NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh.  
Lê Hoàng Vân Trang. 2006. Tài liệu sưu tầm, điền dã văn học dân gian Khmer Trà Vinh.  
Trường Đại học Trà Vinh.  
Nguyễn Đức Dân. 1999. Dấu ấn văn hóa qua tục ngữ. Kiến thức ngày nay. 329. tr.03-06.  
Nguyễn Mạnh Cường. 2002. Vài nét về người Khmer Nam Bộ. NXB KHXH.  
Sơn Phước Hoan. 1998. Thành ngữ và tục ngữ Khmer. NXB Giáo dục.  
Trần Ngọc Thêm. 1997. Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam. NXB TP. Hồ Chí Minh.  
Trường Lưu. 1993. Văn hóa người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Văn hóa Dân tộc.  
54  
Soá 12, thaùng 3/2014  
pdf 6 trang Thùy Anh 13/05/2022 2600
Bạn đang xem tài liệu "Dấu ấn văn hóa nông nghiệp và sông nước trong thành ngữ - tục ngữ Khmer Nam Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdau_an_van_hoa_nong_nghiep_va_song_nuoc_trong_thanh_ngu_tuc.pdf