Quản trị đất đai: Các tiêu chuẩn, khuyến nghị quốc tế và giá trị tham khảo cho Việt Nam

QUẢN TRỊ ĐẤT ĐAI: CÁC TIÊU CHUẨN, KHUYẾN NGHỊ  
QUỐC TẾ VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM  
TS. Bùi Tiến Đạt (Khoa Luật – ĐHQGHN)  
Trần Thị Trinh (Cựu sinh viên Khoa Luật – ĐHQGHN)  
1. Tiêu chuẩn quản trị đất đai quốc tế  
Quản trị đất đai thể hiện trách nhiệm của chính phủ trong quản lý đất đai thông  
qua tập trung vào các vấn đề chính sách và tầm quan trọng của việc quản lý hiệu quả.  
Quản trị đất đai có thể được hiểu là cách chính phủ điều hành cơ chế quản lý đất đai1.  
Theo nghiên cứu tại các quốc gia đang phát triển, sự minh bạch và an toàn về quyền  
sử dụng đất chưa được đảm bảo khiến một bộ phận lớn dân cư không thể thực hiện  
được các hoạt động kinh tế và từ đó đánh mất đi khoảng lợi ích có thể thu được để  
đóng góp vào nền kinh tế, phải kể đến như khuyến khích đầu tư lớn hơn, khả năng  
chuyển nhượng đất đai, cải thiện khả năng tiếp cận thị trường tín dụng, quản lý bền  
vững hơn các nguồn lực và độc lập khỏi sự can thiệp tùy ý của các quan chức, thường  
được liên kết với các quyền tài sản liên quan đến quyền sử dụng đất.2 Điều này không  
chỉ minh họa rằng bảo mật về quyền sở hữu được đánh giá cao, nhưng điều đó cũng  
được coi trọng trong nhiều bối cảnh các hệ thống quản lý đất đai hiện tại không cung  
cấp được yêu cầu đối với quyền sở hữu an toàn.  
Quản lý đất đai bao gồm những chức năng, nhiệm vụ liên quan đến việc xác lập  
và thực thi các quy tắc cho việc quản lý, sử dụng và phát triển đất đai cùng với những  
lợi nhuận thu được từ đất (thông qua bán, cho thuê, hoặc thuế) và giải quyết những  
tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu và quyền sử dụng đất. Quản lý đất đai là quá  
trình điều tra mô tả, những tài liệu chi tiết về thửa đất, xác định hoặc điều chỉnh các  
quyền và các thuộc tính khác của đất, lưu giữ và cập nhật và cung cấp những thông  
tin về sở hữu, giá trị, sử dụng đất và các nguồn thông tin khác liên quan đến thị trường  
bất động sản. Quản lý đất đai liên quan đến cả hai đối tượng đất công và đất tư bao  
gồm: đo đạc đất đai, đăng ký đất đai, định giá đất, giám sát và quản lý sử dụng đất  
đai, cơ sở hạ tầng cho công tác quản lý.3  
Một hệ thống Quản lý đất đai và bất động sản có chức năng xác lập hồ sơ về  
quyền sở hữu đất, giá trị đất, sử dụng đất và các tài liệu khác liên quan đến đất là một  
1
Tommy Osterberg, 2010, National Land Survey, Land Admistation in Sweden, GDLA, Semina on Land  
Admistation Ha Noi Octorber, 2010  
2
Klaus, Land Policies for Growth and Poverty Reduction. World Bank Policy Research Report; 2003,  
Washington, DC: World Bank and Oxford University Press. © World Bank, tr.25.  
3 Nguyễn Đình Bồng, Nghiên cứu đổi mới hệ thống đất đai để hình thành và phát triển thị trường bất động sản  
ở Việt Nam, Báo cáo tổng kết đề tài độc lập cấp nhà nước mã số ĐTĐL2002/15, Trung tâm điều tra quy hoạt  
đất đai, Bộ Tài nguyên và môi trường, tr.60.  
212  
công cụ không thể thiếu được của nền kinh tế thị trường lành mạnh và thông thoáng  
cũng như để quản lý bền vững tài nguyên đất. Các nước có nền kinh tế thị trương phát  
triển và đang phát triển đều hướng tới việc xây dựng và kiện toàn hệ thống quản lý  
đất đai và bất động sản với mục đích: đảm bảo quyền sở hữu và an toàn quyền hưởng  
dụng; Hỗ trợ cho thuế đất và bất động sản; đảm bảo an toàn tín dụng; phát triển và  
giám sát thị trường bất động sản; bảo vệ đất Nhà nước; giảm thiểu tranh chấp đất đai;  
thuận lợi cho quá trình đổi mới hệ thống quản lý đất đai; tăng cường quy hoạch đô  
thị và phát triển kết cấu hạ tầng; hỗ trợ quản lý môi trường; phát hành các tài liệu  
thống kê, đất đai phục vụ các mục tiêu, kinh tế xã hội. Tuỳ thuộc tình hình đặc điểm  
chính trị, kinh tế, xã hội; mục tiêu chiến lược, quy hoạch phát triển; yêu cầu quản lý  
đất đai và bất động sản trong từng thời kỳ, mỗi quốc gia lựa chọn phương án khác  
nhau cho một hệ thống quản lý đất đai và bất động sản  
Đối với thị trường bất động sản, các nước phải thiết lập một hệ thống quản lý  
của mình để:  
- Đảm bảo quyền sở hữu và cung cấp bảo hiểm cho các khoản vay;  
- Hỗ trợ việc định giá để đánh thuế đất và bất động sản;  
- Cung cấp tư liệu để vận hành thị trường đất và bất động sản;  
- Cung cấp tư liệu về cấu trúc sử dụng đất và những hạn chế về sử dụng đất;  
- Giám sát tác động môi trường của những dự án phát triển;  
- Tạo thuận lợi cho cải cách đất đai;  
- Hỗ trợ kinh phí sáng tạo ban đầu về hệ thống quản lý đất đai và thu hồi trong  
quá trình vận hành.  
Để thực hiện được 7 chức năng này, các công việc được chú ý trước tiên là đăng  
ký, định giá, thuế bất động sản và quy hoạch sử dụng đất.4  
Các vấn đề chính sách: Việc quản lý tư liệu về quyền sở hữu đất và thế chấp  
nhằm đáp ứng nhu cầu cải thiện việc chuyển nhượng nhằm cung cấp sự đảm bảo lớn  
hơn cho thị trường đất đai. Nhiều nước đã hợp nhất tư liệu về quyền ở hữu đất và thế  
chấp vào trong một sổ đăng ký, còn những thông tin khác có thể tra cứu một cách độc  
lập khi phát sinh chuyển dịch. Các yêu cầu đối với một hệ thống đăng ký đất đai bao  
gồm:  
- Bao gồm quyết định pháp lý của đơn vị bất động sản phản ảnh một cách chính  
xác các điều kiện trên đất.  
- Đảm bảo việc chuyển dịch đất đai thông qua hệ thống là đơn giản, rẻ và an  
toàn.  
- Loại bỏ việc truy tìm cả dãy đăng ký trong quá khứ.  
4 Nguyễn Đình Bổng, tr.20.  
213  
- Hỗ trợ pháp lý kịp thời.  
- Thoả mãn được yêu cầu của địa phương.  
- Đăng ký các quyền đặc biệt về bất động sản, quyền sở hữu và những hạn chế  
về quyền sở hữu...  
- Bao trùm tất cả đất đai của Nhà nước, cá nhân và tổ chức.  
Thông tin về giá trị của đất trong hệ thống có thể có hoặc không, nếu có thì  
thường dùng để tính các khoản chi trả cho dịch vụ hoặc thuế vốn cho Chính phủ, và  
thường là khác với giá cả thật để người bán hoặc người mua tránh phải nộp thuế cao.  
Một khi số liệu đã nằm trong sổ đăng ký thì việc đăng ký phải cập nhật trong mọi  
thời gian. Nhiều nước đang gặp khó khăn trong việc này, nhất là trường hợp quyền  
sở hữu được thừa kế mà các chủ đất không đăng ký do không biết, do hiểu lầm về thủ  
tục hoặc do trốn thuế. Quyết định đăng ký sở hữu đất phải xác nhận được "ai" đang  
sở hữu "cái gì", nghĩa là quyền sở hữu là chắc chắn và ranh giới thửa đất đã được  
thoả thuận với những người xung quanh.  
Mục tiêu đổi mới cách thức xây dựng, thu nhận, quản lý số liệu đất đai hiện nay,  
đáp ứng nhu cầu thông tin, dữ liệu phục vụ quản lý nhà nước về đất đai đáp ứng yêu  
cầu phát triển kinh tế - xã hội; phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai cho các  
cấp xã, huyện, ban, ngành và các thành phần kinh tế.  
2. Kinh nghiệm quốc tế và giá trị tham khảo cho Việt Nam  
Kinh nghiệm quốc tế  
Tại một số nước tiên tiến, hệ thống đăng ký và quản lý bất động sản đã được  
thiết lập sử dụng hệ thống máy tính. Tùy theo điều kiện của từng Quốc gia mà hệ  
thống có thể xây dựng dưới dạng tập trung hoặc phân tán. Hệ thống bao gồm các mối  
liên kết chặt chẽ với các cơ quan liên quan như cơ quan đăng ký, toà án, ngân hàng  
... phục vụ nhiều đối tượng sử dụng. Hệ thống cũng bao gồm các thông tin chi tiết về  
định giá bất động sản, tạo ra cơ sở về thông tin và tham gia tích cực vào thị trường  
bất động sản. Mặc dù có nhiều điểm khác nhau giữa các nước trên thế giới, nhưng hệ  
thống đăng ký đất đai được xây dựng trong thời gian dài của của các nước phát triển  
luôn được biết đến bởi tính hiệu quả, giản tiện, công khai nhưng an toàn, đáng tin cậy  
cho tất cả những người có liên quan. Với hệ thống này, Nhà nước các quốc gia đã thu  
được nhiều thành quả trong hoạt động quản lý đất đai của mình. Vì vậy, dù chế độ sở  
hữu đối với đất đai giữa Việt Nam và các nước có thể không hoàn toàn giống nhau,  
nhưng chúng ta vẫn có thể tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm của các nước trong việc tổ  
chức và quản lý hệ thống quản trị đất đai  
Hệ thống quản lý đất đai và bất động sản (HTQLĐĐ&BĐS) ở các nước phát  
triển (Pháp , Đức , Hà Lan, Thuỵ Điển, Uc …) có lịch sử hình thành và phát triển trên  
214  
100 năm, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm và thu được nhiều thành quả;  
HTQLĐĐ&BĐS ở các nước phát triển và đang phát triển trong khu vực ( Đài Loan,  
Thái Lan, Malaixia) được hình thành trong khoảng 40-50 năm theo kinh nghiệm của  
các nước phát triển; HTQLĐĐ&BĐS các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ nền kinh  
tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường ( Trung Quốc và các nước Đông  
Âu) đã và đang đổi mới trong khoản 20 năm trở lại đây. Hệ thống quản lý đất đai và  
bất động sản hiện tại của các nước có những đặc điểm chung: (a) Trực thuộc Bộ quản  
lý đa ngành về tài nguyên, môi trường, quy hoạch, phát triển hạ tầng ( Thuỵ Điển, Hà  
Lan, Uc, Malaixia, Trung Quốc ); (b) tổ chức hoạt động chuyên môn theo ngành dọc  
từ trung ương đến địa phương; (c) Cơ cấu Hệ thống gồm các thành phần chính: chính  
sách, pháp luật, quy hoạch sử dụng đất , đo đạc bản đồ địa chính, đăng ký đất đai và  
bất động sản, định giá, hệ thống thông tin; (d) Hiện đại hoá HTQLĐĐ&BĐS trên cơ  
sở ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại: công nghệ GPS, viền thám, hàng không  
trong việc đo đạc lập bản đồ , công nghệ thông tin trong việc xây dựng hệ thống thông  
tin Địa lý (GIS) , Thông tin đất đai ( LIS) phục vụ cho công tác quy hoạch, đăng ký,  
định giá.  
- Kinh nghiệm của Thuỵ Điển  
Theo Bộ luật đất đai 2000 của Thuỵ Điển, với mục đích khuyến khích và kiểm  
soát việc sử dụng đất hiệu quả bền vững lâu dài, cũng như quản lý và cung cấp đầy  
đủ thông tin đất đai cho mục đích quy hoạch, bảo vệ quyền sở hữu đất đai, hỗ trợ hệ  
thống thuế, kiểm soát môi trường và phát triển kinh tế5, một hệ thống đăng ký đất đai  
với lịch sử lâu đời đã được thiết lập ở Thụy Điển. Một đạo luật mới cũng có hiệu lực  
thi hành là Luật Đăng ký Bất động sản (Real Property Register Act) nhằm mục đích  
bảo vệ và ngăn chặn sự xâm phạm những dữ liệu nhân thân cá nhân liên quan đến bất  
động sản/đất đai đã được đăng ký. Luật mới quy định rõ những thông tin đất đai được  
đăng ký có thể được tìm và tham khảo trực tiếp nhưng không thể thay đổi nội dung  
đã đăng ký, cũng như những thông tin nào không thể cung cấp hoặc cung cấp hạn chế  
theo yêu cầu (như việc thế chấp đất đai/bất động sản, tình trạng hôn nhân của người  
sở hữu/sử dụng đất..v.v). Cơ quan Đo đạc Đất đai quốc gia sẽ chịu trách nhiệm ra các  
quyết định liên quan đến việc cung cấp thông tin bất động sản, đảm bảo những dữ  
liệu nhân thân chỉ có thể được sử dụng cho những mục đích phù hợp với quy định  
pháp luật. Để các dữ liệu, thông tin đất đai được trao đổi thống nhất giữa các cơ quan  
địa chính ở trung ương và địa phương, Cơ quan Đo đạc Đất đai quốc gia đã triển khai  
xây dựng, ứng dụng nhiều kỹ thuật thông tin mới trong hoạt động đăng ký như  
Interface 2000 (quy định về mô hình thông tin, cơ chế truyền tải dữ liệu, những quy  
5 Cadastral Template, http://www.cadastraltemplate.org/countrydata/se.htm. Truy cập [7/11/2021 20:39]  
215  
tắc quản lý và bảo quản dữ liệu), Arc Cadastre (công cụ mới dùng để xử lý các loại  
dữ liệu khác nhau thu được từ việc đo đạc, tính toán; nó tạo ra, sắp xếp, duy trì và  
trình bày dữ liệu dưới dạng kỹ thuật số hoặc hình thức tương tự)..v.v. Việc xây dựng  
và ứng dụng một hệ thống phần mềm dữ liệu như Arc Cadastre trong hoạt động thông  
tin địa chính tuy tốn rất nhiều chi phí nhưng nó có thể được sử dụng lâu dài và dễ  
dàng cải tiến, nâng cấp trong quá trình sử dụng, phù hợp với sự thay đổi nhanh chóng  
của khoa học kỹ thuật. Ngày nay, không chỉ Thụy Điển mà còn nhiều cơ quan, tổ  
chức địa chính tại các nước khác thụ hưởng được nhiều lợi ích từ việc sử dụng hệ  
thống phần mềm này.  
Cải tiến xa hơn của Thụy Điển đối với hệ thống đăng ký sở hữu là tất cả các  
ranh giới bất động sản cũng như những yếu tố cảnh quan quan trọng sẽ được kỹ thuật  
số hóa và đưa vào hệ thống cơ sở dữ liệu. Điều này tạo ra nhiều khả năng thuận lợi  
cho việc sản xuất bản đồ đã được vi tính hóa với những nội dung và tỉ lệ đa dạng theo  
nhu cầu của người sử dụng6.  
- Kinh nghiệm của Nhật Bản  
Tại Nhật Bản, việc xây dựng, số hóa tại hệ thống đăng ký bất động sản được  
thực hiện từ năm 1988 đến năm 2008, với kết quả đã đưa được 270 triệu thông tin về  
bất động sản vào hệ thống. Năm 2000, người đăng ký bất động sản có thể thực hiện  
đăng ký bất kỳ ở văn phòng đăng ký nào trong hệ thống mà không bắt buộc đến đơn  
vị hành chính nơi có bất động sản để thực hiện quyền của mình. Trong cùng năm này  
người dân cũng có thể xem được thông tin đăng ký qua mạng Internet. Theo Luật  
đăng ký bất động sản (Luật số 123 năm 2004) thì “Hệ thống đăng ký bất động sản”  
được tập trung quản lý tại Trung ương. Trong hệ thống có 50 chi nhánh và 420 văn  
phòng đăng ký tại các địa phương để quản lý theo khu vực trực thuộc. Nhật Bản có  
tất cả 06 Trung tâm dữ liệu (Data Center), được phân tích, nghiên cứu, xây dựng và  
thiết lập tại 6 vùng của nước Nhật. Hệ thống đăng ký bất động sản có các chức năng  
như: Quản lý quyền sở hữu và các quyền khác có thể quản lý quyền lợi đối với bất  
động sản về quyền sở hữu và cả quyền khác như quyền thế chấp ngoài quyền sở hữu,  
hiện đang quản lý bao gồm cả nội dung các quyền lợi đối với bất động sản như quyền  
thế chấp, quyền vay… khi thế chấp đất đai và nhà ở. Quản lý nội dung lưu trữ trước  
và sau biến động cho phép quản lý nội dung lưu trữ sau biến động là thông tin mới  
nhất các thông tin trước khi biến động cũng được lưu trữ lại.  
6
Gerhard Larsson, “Property and Land Information System”, trong “Land Law in Action”, Tài liệu tập hợp  
các bài viết tham dự Hội thảo về Cải cách đất đai, bao gồm Pháp luật đất đai và Hệ thống đăng ký đất đai, tại  
Stockholm vào ngày 16-17 tháng 6 năm 1996, được xuất bản bởi Bộ Ngoại giao Thụy Điển và Học viện Kỹ  
thuật Hoàng gia Stockholm, ISBN 91-7496-098-9, trang 71.  
216  
Chế độ đăng ký BĐS là nền tảng căn bản của xã hội và của sự phát triển kinh tế  
của Nhật Bản, được tận dụng trong các hoạt động kinh tế và quản lý đất đai. Cụ thể:  
(1) trong giao dịch BĐS: thu thập thông tin, đăng ký bảo tồn quyền sở hữu, đăng ký  
chuyển quyền sở hữu; (2) tận dụng trong hoạt động tín dụng: thu thập thông tin, quyền  
thế chấp, bảo đảm đăng ký tạm, quyền mua lại; (3) tận dụng trong phát triển: thu thập  
thông tin, phát triển BĐS...; (4) tận dụng trong điều tra đất đai: điều tra địa tịch, hoàn  
thiện bản đồ địa chính; (5) tận dụng trong chế độ thuế: thu thuế, xử lý nộp chậm, giảm  
thuế mua nhà trả chậm...; (6) tận dụng trong chính sách nông nghiệp, chính sách sông  
ngòi; (7) tận dụng trong thi hành án dân sự, thu hồi đất. Bên cạnh đó hệ thống cho  
phép phát hành GCN đối với các bất động sản do các văn phòng đăng ký khác quản  
lý. Tự động biên tập và phát hành GCN đối với các các bất động sản do các văn phòng  
đăng ký khác quản lý. Theo đó, người dân có thể đến các văn phòng đăng ký gần  
mình nhất để yêu cầu cấp GCN đối với bất động sản trên toàn quốc. Trong trường  
hợp đang xử lý yêu cầu đăng ký, bất động sản có yêu cầu cấp GCN sẽ bị chặn không  
cho phát hành GCN dùng để cung cấp. Là chức năng cần thiết để cấp GCN dùng để  
cung cấp với các thông tin mới nhất. Đảm bảo nội dung trong GCN cung cấp là thông  
tin mới nhất bằng việc ngăn chặn phát hành GCN cung cấp cho đến khi hoàn thành  
xử lý yêu cầu đăng ký.  
Nhờ việc công khai rộng rãi Sổ đăng ký, nên ai cũng có thể biết được người  
đứng tên BĐS cụ thể (trong quá khứ cũng như hiện tại), quyền lợi của người khác có  
liên quan đến BĐS đó và là quyền lợi gì.  
Lợi ích đối với Chính phủ là có thể xử lý đồng loạt số lượng lớn BĐS: Cho phép  
xử lý đồng loạt với một số lượng lớn BĐS, xử lý đồng loạt tiếp nhận, lưu trữ .v.v.  
trong trường hợp cần lưu trữ đối với số lượng lớn bất động sản do sự thay đổi tên xã  
phường hành chính và điều chỉnh lại thửa đất.  
Trường hợp thông tin không chính xác dẫn đến thiệt hại cho người sử dụng  
thông tin từ chế độ đăng ký, Nhật Bản sẽ áp dụng pháp luật về bồi thường nhà nước.7  
Giá trị tham khảo cho Việt Nam  
Chính phủ đóng vai trò chủ chốt bằng việc tạo ra một môi trường an toàn để thị  
trường phát triển và hạn chế sự dư thừa của thị trường thiếu kiểm soát. Đặc biệt ở các  
nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, Nhà nước còn đóng vai trò điều tiết trực  
tiếp một số yếu tố thị trường để khắc phục sự non nớt và thiếu hoàn thiện của thị  
trường nội địa.  
7
Nguyễn Phước Thọ, Kinh nghiệm của Nhật Bản và yêu cầu cấp bách cần xây dựng, ban hành luật đăng ký  
tài sản ở nước ta, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 20 (396), tháng 10/2019, Hà Nội.  
217  
Một trong những yếu tố cần hoàn thành trong việc triển khai hệ thống thông tin  
đất đai của Việt Nam là hoàn thiện hành lang pháp lý cho hệ thống thông tin đất đai  
bên cạnh các yếu tố khác bao gồm: Xây dựng, chuẩn hoá CSDL đất đai, Xây dựng  
và triển khai phần mềm ứng dụng cho hệ thống thông tin đất đai, Triển khai Trung  
tâm dữ liệu, trang thiết bị đường truyền, thiết bị đầu cuối; Đào tạo nhân lực; Vận hành  
bảo trì. Trong đó cần phải hoàn thiện pháp luật về hai khía cạnh:  
Thứ nhất, chấp nhận giấy chứng nhận dùng để cung cấp chứng nhận dòng quyền  
lợi bất động sản được cấp bởi văn phòng đăng ký quản lý thuộc hệ thống đăng ký bất  
động sản toàn quốc thay vì giấy chứng nhận được cấp bởi Uỷ ban nhân dân các cấp  
Từ đó có thể giảm tải được các thủ tục (i) Cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận,  
GCN quyền sở hữu nhà ở, GCN quyền sở hữu công trình xây dựng do cơ quan tài  
nguyên và môi trường thực hiện (Điều 105) (ii) Đính chính, thu hồi giấy chứng nhận  
đã cấp  
Bên cạnh đó còn giúp minh bạch thông tin cho người dân khi muốn kiểm tra tính  
hợp pháp của Quyền sử dụng bất động sản nhằm thực hiện các giao dịch liên quan  
Thứ hai, bên cạnh đó cần hoàn thiện hệ thống quản lý đất đai dựa trên những  
nền tảng cơ bản áp dụng công nghệ trong quy trình xử lý. Hệ thống bao gồm các tính  
năng, giải pháp đảm bảo an toàn, an ninh phục vụ việc kết nối liên thông và chia sẻ  
dữ liệu đất đai do trung ương, địa phương quản lý với Cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia  
cung cấp thông tin cho Trung tâm thông tin điều hành của Chính phủ, Thủ tướng  
Chính phủ, cổng Dịch vụ công Quốc gia phục vụ công tác chỉ đạo điều hành và cung  
cấp dịch vụ công trực tuyến; kết nối chia sẻ, sử dụng chung cho các Bộ, ngành, địa  
phương giúp cung cấp dịch vụ công thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp, phát  
triển Chính quyền điện tử, chuyển đổi số tiến tới Chính phủ số.  
Đến thời điểm hiện tại, đã hoàn thành thử nghiệm kết nối với cơ sở dữ liệu đất  
đai do Trung ương quản lý và một số tỉnh/thành phố: Quảng Ninh, Thái Nguyên, Đà  
Nẵng, Quảng Nam, Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Vĩnh Long, Tây Ninh. Các nội dung  
dữ liệu đã kết nối, chia sẻ như: Dữ liệu hiện trạng sử dụng đất của quốc gia và 7 vùng  
kinh tế; Dữ liệu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc gia và 7 vùng kinh tế; Dữ liệu  
khung giá đất, bảng giá đất các tỉnh; Dữ liệu điều tra cơ bản về đất đai của quốc gia  
và 7 vùng kinh tế; Dữ liệu về 12 trường thông tin cơ bản của thửa đất; Bản đồ quy  
hoạch - kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh đối với thành phố Hồ Chí Minh. 8  
Phương pháp ứng dụng công nghệ LIS (Land Information System – Hệ thống  
thông tin đất đai) và GIS (Geographical Information System – Hệ thống thông tin địa  
8
nghiep-583940.html truy cập 17/10/2021  
218  
lý). Công nghệ GIS sử dụng để lưu trữ và quản lý các thông tin không gian (địa lý)  
như bản đồ, ảnh máy bay.9 Hệ thống thông tin đất đai LIS là một giải pháp kỹ thuật  
nhằm hiện đại hóa quản lý đất đai theo xu hướng tin học hóa.  
Hệ thống thông tin đất đai sẽ được tích hợp với dữ liệu nhiều ngành khác, hướng  
đến hệ thống dữ liệu đa mục tiêu nhằm phục vụ việc hình thành Chính phủ điện tử.  
Giải pháp triển khai hệ thống thông tin đất đai trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp  
lần thứ 4 và những hiệu quả kinh tế của việc vận hành hệ thống này bao gồm: (i) Có  
một giải pháp tổng thể về cập nhật, tra cứu sử dụng dữ liệu với các mức độ khác nhau:  
từng máy đơn lẻ cho đến mạng internet; (ii) Có khả năng quản lý dữ liệu rất lớn, nhiều  
dạng dữ liệu trong một cơ sở dữ liệu thống nhất; (iii) Là công nghệ tiên tiến, tuân  
theo các tiêu chuẩn công nghiệp, đang sử dụng rộng rãi trên thế giới và phù hợp với  
nước ta, đặc biệt trong công tác quản lý đất đai; (iv) Có cơ chế bảo mật và an toàn dữ  
liệu; (v) Có tính mở, deẽ dàng cho người sử dụng phát triển thêm các ứng dụng có  
tính đặc thù; (vi) Cung cấp các giải pháp chạy trên các môi trường làm việc khác  
nhau: trên máy đơn lẻ (cấp xã, huyện), trên hệ thống đa người sử dụng ở mạng cục  
bộ (cấp tỉnh, huyện) và trên mạng diện rộng Internet/Intranet (cấp quốc gia, tỉnh);  
(vii) Có giải pháp tốt cho xây dựng các phần mềm ứng dụng trên nền công nghệ gốc.  
Đảm bảo người sử dụng có khả năng xây dựng các ứng dụng trên nền công nghệ gốc,  
phù hợp với quy trình quản lý đất đai ở tỉnh.10  
3. Kết luận  
Áp dụng chuyển đổi số trong công tác quản lý ở các lĩnh vực là việc cần thiết  
của Chính phủ trong thời đại công nghệ số phát triển hiện nay, việc áp dụng trong hệ  
thống quản trị đất đai cũng không nằm ngoài xu hướng. Bài viết này nhấn mạnh đến  
vấn đề pháp lý và chính sách cùng với các vấn đề dựa trên nền tảng công nghệ đối  
với việc quản lý việc cấp và sử dụng các thông tin liên quan đến giấy chứng nhận  
quyền sử dụng đất. Để từ đó dựa trên sự minh bạch và hiệu quả trong việc quản lý và  
cung cấp thông tin giúp cho hệ thống quản lý đất đai đáp ứng được những yêu cầu  
trong việc hoàn thiện hơn và góp phần xây dựng đất nước như mục tiêu Chính phủ  
đã đề ra.  
9 Ngô Văn Trang, Ứng dụng GIS trong hệ tích hợp quản lý thông tin đất đai, Đại học Công nghệ, Đại học Quốc  
gia Hà Nội, 2010, Hà Nội.  
10 Ngô Văn Trang, tr.53.  
219  
Danh mục tài liệu tham khảo  
1. Nguyễn Đình Bồng, Nghiên cứu đổi mới hệ thống đất đai để hình thành và phát  
triển thị trường bất động sản ở Việt Nam, Báo cáo tổng kết đề tài độc lập cấp nhà nước mã  
số ĐTĐL2002/15, Trung tâm điều tra quy hoạch đất đai, Bộ Tài nguyên và môi trường.  
2. Án lệ số 40/2021/AL của Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam ngày 23 tháng  
02 năm 2021.  
3. Án lệ số 36/2020/AL của Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam ngày 05 tháng  
02 năm 2020.  
4. Đoàn Văn Bình, Đề tài nghiên cứu khoa học “Bất động sản trong nền kinh  
tế Việt Nam - vai trò và khuyến nghị chính sách” được nghiệm thu theo Quyết định  
số 29/QĐ-VNREA của Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, Viện Nghiên cứu  
bất động sản Việt Nam, 2020.  
5. Nguyễn Phước Thọ, Kinh nghiệm của Nhật Bản và yêu cầu cấp bách cần  
xây dựng, ban hành luật đăng ký tài sản ở nước ta, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 20  
(396), tháng 10/2019, Hà Nội.  
6. Ngô Văn Trang, Ứng dụng GIS trong hệ tích hợp quản lý thông tin đất đai,  
Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010, Hà Nội.  
7. Phó Tổng cục trưởng Tổng cục quản lý đất đai Mai Văn Phấn, Hội thảo  
“Chia sẻ kinh nghiệm của Nhật Bản về đăng ký đất đai và hệ thống thông tin đất đai”,  
Tổng cục Quản lý đất đai (Bộ Tài nguyên và Môi trường) phối hợp với Đại sứ quán  
Nhật Bản tại Việt Nam, 15/03/2019, Hà Nội.  
8. Gerhard Larsson, “Property and Land Information System”, trong “Land  
Law in Action”, Tài liệu tập hợp các bài viết tham dự Hội thảo về Cải cách đất đai,  
bao gồm Pháp luật đất đai và Hệ thống đăng ký đất đai, tại Stockholm vào ngày 16-  
17 tháng 6 năm 1996, được xuất bản bởi Bộ Ngoại giao Thụy Điển và Học viện Kỹ  
thuật Hoàng gia Stockholm, ISBN 91-7496-098-9.  
9. Tommy Osterberg, 2010, National Land Survey, Land Admistation in  
Sweden, GDLA, Semina on Land Admistation Ha Noi Octorber, 2010.  
10. Klaus, Land Policies for Growth and Poverty Reduction. World Bank  
Policy Research Report; 2003, Washington, DC: World Bank and Oxford University  
Press. © World Bank.  
11. Dale, P. F., and J. Mclaughlin. 2000. Land Administration (Spatial  
Information Systems), Oxford, U.K; and New York: Oxford University Press.  
phuc-vu-nguoi-dan-doanh-nghiep-583940.html truy cập 17/10/2021  
220  
pdf 9 trang Thùy Anh 4420
Bạn đang xem tài liệu "Quản trị đất đai: Các tiêu chuẩn, khuyến nghị quốc tế và giá trị tham khảo cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfquan_tri_dat_dai_cac_tieu_chuan_khuyen_nghi_quoc_te_va_gia_t.pdf