Giáo trình Văn hóa gia đình
1
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG
BÀI GIẢNG
MÔN HỌC/ MÔ ĐUN: Văn hóa gia đình
NGÀNH/NGHỀ: Quản lý văn hóa
( Áp dụng cho Trình độ trung cấp.)
LƯU HÀNH NỘI BỘ
NĂM 2017
2
LỜI GIỚI THIỆU
Gia đình được xem như là một xã hội thu nhỏ, là tổ chức tế bào của xã hội,
là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Xã hội Việt Nam với nền văn minh lúa
nước từ lâu đã sống định cư và lấy gia đình làm đơn vị gốc. Trải bao biến thiên của
lịch sử cho đến tận ngày nay, trên con đường đổi mới và tiếp cận với văn hóa
Phương Tây, gia đình Việt Nam vẫn gắn chặt với làng, bản, khu phố và với nước.
Được như thế là vì chúng ta đã có một nền văn hóa gia đình ở Việt Nam.
Dù ở thời kỳ nào, gia đình bao giờ cũng có bốn chức năng cơ bản: chức
năng truyền chủng, chức năng kinh tế, chức năng thỏa mãn các nhu cầu tình
cảm và chức năng nuôi dưỡng, giáo dục, rèn luyện của mỗi thành viên trong
gia đình. Gia đình tức là nhà (gia) gắn liền với nước. Nhà tiếp thu di sản văn hóa
của nước, bảo vệ nước. Người Việt đi từ nhà đến nước. Hai tiếng nước và nhà bao
giờ cũng quyện lấy nhau trong nếp sống văn hóa gia đình của người Việt. Văn hóa
gia đình người Việt không phải là cái gì trừu tượng, chung chung mà được thể hiện
cụ thể, rõ ràng trong nếp sống, trong sinh hoạt, suy nghĩ, tình cảm của mỗi thành
viên trong gia đình. Đó là nền nếp của gia đình, gia tộc. Gia đình, gia tộc nào có
nền nếp tốt thường được dân gian gọi là có gia phong. Gia phong theo Từ điển
Tiếng việt của Đào Duy Anh là “thói nhà, tập quán giáo dục trong gia tộc”; theo
Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học là “nền nếp riêng của một gia đình
phong kiến, nếp nhà”. Như thế, gia phong là nếp nhà, là sự khẳng định những suy
nghĩ, cảm xúc, hành vi của một cộng đồng gia đình, gia tộc về văn hóa đã kéo dài
qua nhiều thế hệ, được mọi người trong gia đình công nhận, tuân theo, thực hiện
một cách tự giác gần như tập quán để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của cộng
đồng gia đình, gia tộc ấy. Văn hóa gia đình, mà trước hết là gia phong, sẽ tạo cho
mọi thành viên của gia đình một bản lĩnh vững vàng khi hòa nhập với mọi biến
thiên của đời sống xã hội, nó sẽ là tấm lá chắn hữu hiệu ngăn chặn mọi sự thâm
nhập tiêu cực của xã hội vào gia đình, gia tộc để bảo tồn, phát huy và tôn vinh
những giá trị của một gia đình văn hóa truyền thống.
Khi nói về vai trò của gia đình, cụ Phan Bội Châu đã khẳng định: “Nước là
một cái nhà lớn, nhà là một cái nước nhỏ”; Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng phát
biểu: “Quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã
hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn, hạt nhân
của xã hội là gia đình”. Nhiêu thập kỷ qua cơ cấu xã hội có biến đổi nhưng tổ
chức của gia đình không biến đổi nhiều. Gia đình là tế bào của xã hội, do đó, văn
hóa gia đình đóng vai trò quan trọng trong vấn đề giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hóa truyền thống dân tộc. gia đình truyền thống Việt Nam xưa rất chú trọng xây
dựng gia đạo, gia phong và gia lễ, trong đó gia đạo là sức mạnh của gia đình. Gia
đạo là đạo đức của gia đình như đạo hiếu, đạo ông bà, đạo cha con, đạo vợ chồng,
đạo anh em. Đạo hiếu là hiếu nghĩa cùa con cháu đối với ông bà, cha mẹ. Gia lễ là
phép ứng xử của con người theo một nguyên tắc có tính tôn ti trật tự theo lễ tiết,
đặc biệt là việc thờ cúng ông bà tổ tiên, đáp ứng nhu cầu đời sống tâm linh. Ở thời
đại nào, văn hóa gia đình cũng là nền tảng cho văn hóa xã hội. Văn hóa gia đình
giàu tính nhân văn, nhân bản, đề cao giá trị đạo đức, xây dựng nếp sống văn hóa
3
trật tự, kỷ cương, hun đúc tâm hồn, bản lĩnh cho con người trong từng tế bào của
xã hội. Bởi vậy, gia đình tốt là đảm bảo cho dân giàu, nước mạnh, xã hội lành
mạnh và văn minh.
Không môi trường nào có ảnh hưởng đến hành vi của con người bằng gia
đình. Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên, thiêng liêng đối với mọi người. tính
chất thiêng liêng trong quan hệ ruột thịt là nhân tố có sức cảm hóa và thôi thúc các
thành viên tự hấp thụ những giá trị gia đình một cách hiển nhiên. Với những đặc
điểm như vậy, gia đình rất cần có những quy tắc, chuẩn mực để hình thành bệ
phóng cho những nhân cách tốt đẹp. Giá trị gia đình có thể hình thành từ các sinh
hoạt thông thường qua thói quen ứng xử, mối quan hệ giữa các thành viên trong
gia đình và trong các mối quan hệ xã hội khác...Chính những giá trị này có tác
dụng sâu sắc đến nhận thức, hành vi của mỗi thành viên. Cha mẹ là những người
đầu tiên có ảnh hưởng đến quá trình hình thành niềm tin và hành vi đạo đức của
con trẻ. Tấm gương của cha mẹ trong việc lựa chọn các mục tiêu sống, tổ chức
cuộc sống hay trong quá trình nuôi dạy con trở thành những mẫu mực và hình
thành nên văn hóa gia đình. Trẻ em thường có khuynh hướng bắt chước các mẫu
ứng xử của ngời lớn mà người gần gũi nhất của con trẻ chính là cha mẹ, ông bà và
những người thân. Dưới mắt con trẻ, cha mẹ vừa là người bảo bọc, vừa là những vị
thần nhân ái, là nhà bác học thiên tài hay là nhà tiên tri độc đáo... Chính vì cảm
nhận ấy, hầu hết trẻ em trong gia đình đều xem cha mẹ là những người khó sai lầm
nhất và bao giờ cũng là những người tốt đẹp nhất. Tính gương mẫu của cha mẹ
được thể hiện ở lối sống, nếp sống và những thói quen hàng ngày, con trẻ sẽ theo
đó làm gương cho mình. Văn hóa gia đình cũng có thể được biểu hiện ở hình thức
quan hệ thứ bậc, giữa anh chị em với nhau, giữa cha mẹ và ông bà, giữa các thành
viên gia đình với mọi người xung quanh. Tính gia trưởng, sự bất bình đẳng giữa
vợ chồng, cha mẹ, con cái trong gia đình sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự trưởng
thành của trẻ em. Tuy nhiên, xu hướng quá đề cao dân chủ, đề cao giải phóng cá
nhân, tự do cá nhân lại chứa đựng những nguy cơ khiến gia đình dễ khủng hoảng,
con cái dễ trở thành người ngoài cuộc hoặc hình thành các thói quen phán xét gia
đình, dẫn đến sự bất lợi cho sự phát triển nhân cách ở trẻ.
4
MỤC LỤC
TRANG
1. Lời giới thiệu
2. Chương 1: Gia đình – một số kiến thức cơ bản về gia đình
3. Chương 2: Văn hóa gia đình truyền thống
02
05
14
4 Chương 3: Phong trào xây dựng gia đình văn hóa trong giai đoạn 26
hiện nay
5..Chương 4: Bạo lực gia đình – Tìm hiểu một số vấn đề cơ bản cue 30
luật phòng chống bạo lực gia đình
5
Chương 1: Gia đình – một số kiến thức cơ bản về gia đình
1.1. Một số khái niệm quản lý.
1.1.1. Gia đình
Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau bởi các
dưỡng và/hoặc quan hệ giáo dục. Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua một
quá trình phát triển lâu dài. Thực tế, gia đình có những ảnh hưởng và những tác
động mạnh mẽ đến xã hội.
Ngay từ thời nguyên thủy cho tới hiện nay, không phụ thuộc vào cách kiếm
sống, gia đình luôn tồn tại và là nơi để đáp ứng những nhu cầu cơ bản cho các
thành viên trong gia đình. Song để đưa ra được một cách xác định phù hợp với
khái niệm gia đình, một số nhà nghiên cứu xã hội học đã đưa ra sự so sánh giữa gia
đình loài người với cuộc sống lứa đôi của động vật, gia đình loài người luôn luôn
bị ràng buộc theo các điều kiện văn hóa xã hội của đời sống gia đình ở con người.
Gia đình ở loài người luôn bị ràng buộc bởi các quy định, các chuẩn mực giá trị, sự
kiểm tra và sự tác động của xã hội; vì thế theo các nhà xã hội học, thuật ngữ gia
đình chỉ nên dùng để nói về gia đình loài người.
Từ mỗi một góc độ nghiên cứu hay mỗi một khoa học khi xem xét về gia đình đều
có thể đưa ra một khái niệm gia đình cụ thể, phù hợp với nội dung nghiên cứu phù
hợp và chỉ có như vậy mới có cách tiếp cận phù hợp đến với gia đình.
xem xét gia đình như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như một thiết chế xã hội mà
có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xã hội hóa con người. Gia đình là
một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn
bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi,
bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng
những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã
1.1.2. Hộ
hay một nhóm người ở chung và ăn chung (nhân khẩu). Đối với những hộ có từ 2
người trở lên, các thành viên trong hộ có thể có hay không có quỹ thu chi chung
Hộ gia đình được phân loại như sau:
Hộ một người (01 nhân khẩu) Là hộ chi có một người đang thực tế thường
trú tại địa bàn.
6
Hộ mở rộng: Là hộ bao gồm gia đình hạt nhân đơn và những người có quan
hệ gia đình với gia đình hạt nhân. Ví dụ: một người cha đẻ cùng với con đẻ và
những người thân khác, hoặc một cặp vợ chồng với người thân khác;
Hộ hỗn hợp: Là trường hợp đặc biệt của loại Hộ mở rộng.
1.1.3. Văn hóa gia đình
Văn hóa là một trong những khái niệm được sử dụng rộng rãi nhất trong xã
hội học. Tuy nhiên khái niệm văn hóa trong xã hội học khác với cách hiểu văn hóa
trong tư duy thông thường. Trong giao tiếp hàng ngày người ta có xu hướng coi
“văn hóa” là thuộc về phạm trù những cái đúng, cái tốt, cái đẹp hoặc văn hóa đồng
nghĩa với những cái gì đó cao siêu như nghệ thuật, văn học, âm nhạc, hội họa…
“Văn hóa gia đình là những thực hành hàng ngày của các thành viên trong gia đình
nhằm củng cố và phát triển các mối quan hệ tình cảm, đạo đức tạo nên một gia
đình bền vững”.Trong khuôn khổ của một tham luận, chúng tôi chỉ dừng lại ở một
số thực hành đó của văn hóa gia đình, đó là những thực hành trong việc nuôi
dưỡng, giáo dục con cái. Đó là việc nuôi dạy con cái để chúng có kỹ năng sống,
làm các công việc trong gia đình (nữ công gia chánh) và chuẩn bị cho chúng bước
ra ngoài xã hội, dạy dỗ việc ứng xử với cha mẹ, anh chị em trong gia đình, bà con
trong dòng họ và ứng xử ngoài xã hội, mối quan hệ của con cái đối với họ hàng hai
bên và cộng đồng làng xóm xung quanh… Với những thực hành văn hóa này tại
mỗi gia đình sẽ tạo ra những con người có nhân cách, có tình cảm, sự nhường nhịn,
lễ phép, kính trên nhường dưới, có lòng bao dung và tình yêu con người … Như
trên đã viết, gia đình là nơi đầu tiên của mỗi con người khi sinh ra, nó được nuôi
dưỡng từ khi thai nghén đến lúc trưởng thành bước ra cuộc đời. Do đó mọi sự dạy
dỗ ở đây thật sự là nền tảng, là bệ đỡ, là cơ sở để con người có thể vững vàng bước
ra cuộc sống. Bởi vậy nói gia đình là hạt nhân của xã hội, là tế bào của xã hội và
hạt nhân ấy, tế bào ấy có mạnh khỏe, có lành mạnh thì xã hội mới lành mạnh.Điều
này càng khẳng định văn hóa gia đình là một giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam.
Trong những thành tố của văn hóa gia đình thì những thực hành hàng ngày
trong việc dạy dỗ con cái theo chúng tôi là hết sức quan trọng của văn hóa gia đình
mà lâu nay có phần nào chưa được chú ý một cách đầy đủ, do đó dẫn đến những hệ
quả mà đến nay chúng ta phải gánh chịu.
Thật vậy, những năm gần đây, báo chí và các phương tiện thông tin đại
chúng liên tục đưa tin các vụ việc liên quan đến sự xuống cấp về đạo đức xã hội
như chuyện học trò đánh cô giáo, bạo lực học đường, sát thủ máu lạnh là thanh
niên mới lớn, thậm chí còn ở tuổi vị thành niên, con cái đối xử tệ bạc với cha mẹ,
anh em đánh nhau, vợ chồng bất hòa gây án mạng v.v và v.v… Chỉ lấy ví dụ gần
đây nhất vụ án giết cả gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh đúng trong dịp tết
Nguyên Đán Mậu Tuất đã thấy mức độ nghiêm trọng của nó. Chuyện anh em đánh
nhau vì tranh giành của cải, con cái đuổi bố mẹ ra khỏi nhà, đối xử tàn tệ với bố
mẹ hay nhiều hiện tượng sa sút đạo đức thấy phổ biến trong xã hội đã được nhiều
người nói đến như một sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Người ta đổ cho vấn đề
7
kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và ảnh hưởng của văn hóa phương Tây với những
phim ảnh bạo lực từ nước ngoài… Điều mà từ những năm 30 của thế kỷ trước học
giả Đào Duy Anh đã nói đến: “Cái bi kịch hiện thời của dân tộc ta là sự xung đột
của những giá trị cổ truyền của văn hóa cũ ấy với những điều mới lạ của văn hóa
Tây phương. Cuộc xung đột sẽ giải quyết thế nào, đó là một vấn đề quan hệ đến
cuộc sinh tử tồn vong của dân tộc vậy.”(Đào Duy Anh, 2000). Trước đây, chính
trong hoàn cảnh đó văn hóa Việt Nam lại trỗi dậy và chống lại những ảnh hưởng
của văn hóa Tây phương để chúng ta có được hai cuộc kháng chiến thần thánh
chống Pháp và chống Mỹ. Còn ngày nay, hình như chúng ta đang lúng túng trước
vấn đề này. Để tìm hiểu ngọn nguồn của tất cả các hiện tượng đó không phải là dễ
và có thể làm trong ngày một ngày hai.Tuy nhiên, phải thừa nhận là kết quả của
ngày hôm nay có nguyên nhân được tích tụ trong một thời gian dài từ sau Cách
mạng thành công và từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháo đến nay. Có thể
khái quát ở một số điểm như sau:
Thứ nhất, công cuộc kháng chiến chống Pháp thần kỳ của người Việt từ nô
lệ vươn lên đánh đuổi một đế quốc lớn mạnh hơn chúng ta rất nhiều lần về mọi mặt
nên cả dân tộc đã phải gồng mình lên để dành chiến thắng. Thời gian ấy, do nhiều
lý do, nên điều kiện cho việc củng cố văn hóa trong đó có văn hóa gia đình không
được quan tâm đến. Từ tiêu thổ kháng chiến với việc đình chùa, đền miếu và các di
tích văn hóa bị phá hủy, các cuộc chỉnh huấn, chỉnh quân trong quân đội, cải cách
ruộng đất, phong trào chống phong kiến đã có ảnh hưởng không nhỏ đến các giá trị
văn hóa nói chung, các thực hành của văn hóa gia đình nói riêng .
Thứ hai, sau khi miền Bắc giải phóng đất nước đi vào việc xây dựng hòa
bình trong tình trạng còn nửa nước đang có chiến tranh nên phải tập trung sức lực
để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cả nước luôn ở trong tư thế thời
chiến nên mọi chuyện gia đình, riêng tư đều được gác lại và mọi chuyện thuộc gia
đình, thuộc đời sống cá nhân con người đều hướng tới một mục đích “Tất cả cho
tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Mọi chuyện gia đình, cá nhân là chuyện
nhỏ trước cuộc kháng chiến vĩ đại của đất nước. Đương nhiên, trong môi trường
mỗi gia đình, những thực hành văn hóa vẫn diễn ra nhưng trong bối cảnh chung
của cả nước thì cái chung vẫn là cái được đặt lên hàng đầu.
Thứ ba, trong thời gian sau hòa bình năm 1954 hướng theo nền văn hóa mới
xã hội chủ nghĩa từ Liên Xô, vấn đề cá nhân, gia đình lại càng bị hạn chế bởi vai
trò tập thể được đề cao, hợp tác xã, sản xuất lớn, xóa bỏ tư hữu, đề cao công hữu,
tiến tới sản xuất lớn. Đặc biệt là cuộc cách mạng văn hóa tiếp tục được đẩy mạnh
với việc chống mê tín dị đoan, hạn chế tôn giáo, là những tác động to lớn vào tư
tưởng của cả người lãnh đạo đến người dân bình thường.
Thứ tư, bên cạnh những vấn đề về hệ tư tưởng, về tâm linh kể trên thì sự xáo
trộn xã hội trong hai cuộc kháng chiến cùng với việc ảnh hưởng của giáo điều, máy
móc như dân chủ, bình đẳng thái quá tạo nên những thách thức với truyền thống
tôn ty trật tự trong gia đình, dòng họ, tôn sư trọng đạo trong nhà trường.
Thứ năm, cũng là tiếp thu văn hóa mới một cách máy móc, mà việc đề cao quần
chúng một cách thái quá, coi trọng văn hóa quần chúng theo kiểu tập thể, đồng loạt
như nhau nên đã có sự gò ép tính đa dạng, sáng tạo cá nhân vào những khuôn mẫu
8
làm mất đi không ít các giá trị văn hóa dân gian của các dân tộc bằng cách áp đặt
khuôn mẫu của văn hóa phương tây vào nó. Chẳng hạn như ý kiến của nhà nghiên
cứu âm nhạc dân gian Tô Ngọc Thanh nói về việc các nhà sưu tầm người Kinh khi
lên miền núi sưu tầm âm nhạc dân gian các dân tộc đều hướng đến việc dùng
khuông nhạc bảy nốt phương Tây để ghi chép nhạc dân gian của đồng bào nên tất
cả đề phải gì theo khuông nhạc đó. Vai trò cá nhân, nghệ nhân bi lu mờ, chìm
xuống trước cái tập thể, quần chúng.
Thứ sáu, sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước một mặt, đã có lúc
quá lạc quan mà bất chấp những quy luật phát triển. Cộng với việc ngay sau chiến
thắng đất nước lại bước vào các cuộc chiến tranh biên giới kéo dài, cấm vận của
phương Tây nên khi kinh tế thị trường ào ạt vào nước ta thì cả kinh tế và văn hóa
đều rơi vào tình trạng chông chênh. Hơn thế, do mong muốn phát triển nhanh
chóng để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, tụt hậu nên chúng ta đã phát triển
kinh tế bằng mọi giá, để đến nay khi kinh tế tạm có thể gọi là ổn định thì một loạt
những vấn đề văn hóa mới bắt đầu nảy sinh như ta thấy.
Tất cả những điều kể trên có thể nói là một sự tác động âm ỉ, lâu dài đến văn
hóa gia đình của người Việt Nam trong suốt giai đoạn lịch sử vừa qua, và chính nó
là những tác nhân không nhỏ đến sự xuống cấp của văn hóa toàn xã hội Việt nam
nói chung.
1.1.4. Gia đình văn hóa
Được đề ra bởi Chính phủ đã nhiều năm, Gia đình văn hóa được xem như
một chỉ tiêu đề ra tại chính các tổ dân cư, phường, xã để thúc đẩy việc hình thành
lối sống văn minh, đạo đức ngay tại cấp địa phương nhỏ lẻ và cao hơn nữa là hình
thành các thôn văn hóa, tổ dân phố văn hóa,….Với những gia đình đạt các chỉ tiêu
được đưa ra để xem xét thì sẽ được chứng nhận là gia đình văn hóa và có bằng
khen trao về từng nhà.
Có thể nói gia đình hạt nhân là những tế bào nhỏ bé để hình thành nên một xã hội,
một cộng đồng lớn. Gia đình có vai trò quan trọng và quyết định trực tiếp đến việc
xây dựng và ảnh hưởng không nhỏ đến từng cá nhân. Gia đình là nơi nuôi dưỡng
và giáo dục mỗi con người sống có ý thức, có đạo đức và có cống hiến cho xã hội.
Gia đình văn hóa được đề ra để mỗi thành viên trong gia đình có sự cố gắng, nỗ
lực trong mọi hoạt động, thay đổi trong tư duy và nhận thức để sống tốt hơn và có
ích hơn. Từ đó xã hội mới ổn định và phát triển được.
Xã hội nào cũng được tạo nên từ tập hợp nhiều gia đình mà trong đó là các cá
nhân. Xây dựng gia đình văn hóa với nếp sống lành mạnh sẽ tạo ra những con
người chuẩn mực, tạo ra một xã hội tốt đẹp hơn. Ngoài ra xây dựng gia đình văn
hóa cũng là việc làm giúp phát triển truyền thống tốt đẹp của gia đình, gìn giữ bản
sắc của các làng xóm.
Gia đình văn hóa đã trở nên quen thuộc với mỗi cá nhân hiện nay. Tuy nhiên hi
vọng thông qua bài viết này các bạn sẽ có thêm nhiều hơn nữa những hiểu biết gia
đình văn hóa là gì, hiểu rõ hơn các tiêu chí để phấn đấu thúc đẩy sự phát triển của
xã hội.
1.1.5. Các mỗi quan hệ của gia đình
Kn gia đình:
9
Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một
thiết chề văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở
của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục …
giữa các thành viên.
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một hình ảnh “xã hội thu nhỏ”, cơ
bản nhất của xã hội.
Gia đình hình thành từ rất sớm và trải qua một quá trình phát triển lâu dài.
Lịch sử nhân loại có những hình thức hôn nhân: tạp hôn, đối ngẫu, một vợ một
chồng thì cũng có các hình thức gia đình: tập thể, cặp đôi, cá thể và cũng có các
loại gia đình: một thế hệ, hai thế hệ và nhiều thế hệ.
Mối quan hệ giữa gia đình và xã hội:
1. Sự tác động của gia đình đối với sự phát triển của xã hội:
a. Gia đình là tế bào của xã hội:
Gia đình có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, là nhân tố tồn tại
và phát triển của xã hội, là nhân tố cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Gia đình
như một tế bào tự nhiên, là đơn vị nhỏ nhất để tạo nên xã hội. Không có gia đình
để tái tạo ra con người thì xã hội không tồn tại và phát triển được. Chính vì vật,
muốn xã hội tốt thì phải xây dựng gia đình tốt.
Tuy nhiên mức độ tác động của gia đình đối với xã hội còn phụ thuộc vào
bản chất của từng chế độ xã hội. Trong các chế xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư
liệu sx, sự bất bình đẳng trong quan hệ gia đình, quan hệ xã hội đã hạn chế rất lớn
đến sự tác động của gia đình đối với xã hội.
b. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội
Mỗi cá nhân chỉ có thể sinh ra trong gia đình. Không thể có con người sinh ra từ
bên ngoài gia đình. Gia đình là môi trường đầu tiên có ảnh hưởng rất quan trọng
đến sự hình thành và phát triển tính cách của mỗi cá nhân. Và cũng chính trong gia
đình, mỗi cá nhân sẽ học được cách cư xử với người xung quanh và xã hội.
c. Gia đình là tꢀ ấm mang lại các giá trꢁ hạnh phꢂc
Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống của
mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội. Chỉ trong gia đình, mới thể hiện mối
quan hệ tình cảm thiêng liêng giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái.
Gia đình là nơi nuôi dưỡng, chăm sóc những công dân tốt cho xã hội. Sự hạnh
phúc gia đình là tiền đề để hình thành nên nhân cách tốt cho những công dân của
xã hội. Vì vậy muốn xây dunwjg xã hội thì phải chú trọng xây dựng gia đình. Hồ
chủ tịch nói: “Gia đình tốt thì xã hội tốt, nhiều gia đình tốt cộng lại thì làm cho xã
hội tốt hơn”
Xây dựng gia đình là một trách nhiệm, một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể các
mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Thế nhưng, các cá nhân không chỉ sống trong quan hệ gia đình mà còn có những
quan hệ xã hội. Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn là thành
viên của xã hội. Không thể có con người bên ngoài xã hội. Gia đình đóng vai trò
quan trọng để đáp ứng nhu cầu về quan hệ xã hội của mỗ cá nhân.
Ngược lại, bất cứ xã hội nào cũng thông qua gia đình để tác động đến mỗi cá nhân.
Mặt khác, nhiều hiện tượng của xã hội cũng thông qua gia đình mà có ảnh hưởng
10
tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối
sống.
2. Trình độ phát triển của xã hội quy đꢁnh hình thức tꢀ chức, quy mô và kết
cấu của gia đình:
Quan điểm duy vật lịch sử đã chỉ ra rằng, gia đình là những hình thức phản ánh đặc
thù của trình độ phát triển king tế. Trong tiến trình lịch sử nhân loại, các phương
thức sản xuất lần lượt thay thế nhau, dẫn đến sự biến đổi về hình thức tổ chức, quy
mô và kết cấu gia đình. Từ gia đình tập thể – với hình thức quần hôn, huyết thông;
gia đình cặp đôi với hình thức hôn nhân đối ngẫu; đến gia đình cá thể với hình thức
hôn nhân một vợ một chồng. Từ gd một vợ một chồng bất bình đẳng sang gia đình
một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Tất cả những bước tiến trong gia đình đều
phụ thuộc vào những bước tiến trong sản xuất, trong trình độ phát triển kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội của mỗi thời đại lịch sử.
Đặc điểm, đạo đức, lối sống trong gia đình cũng bị chi phối bởi những quan hệ xã
hội. Vì vây, trong mỗi chế độ xã hội khác nhau, có quan điểm khác nhau về tiêu
chuẩn đạo đức, lối sống …
3. Tính độc lập tương đối của gia đình:
Mặc dù, gia đình và xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau, nhưng gia đình
vẫn có tính độc lập tương đối của nó. Bởi vì gia đình và quan hệ gia đình còn bị chi
phối bởi các yếu tố khác như tôn giáo, truyền thống, pháp luật … vì vậy, mặc dù
xã hội có nhưng thay đổi nhưng một số gd vẫn lưu giữ những truyền thống của gia
đình.
1.2. Cấu trúc.
1.2.1. Khái niệm
1.2.2. Các hình thái cấu trúc gia đình
Có nhiều cơ sở để phân loại gia đình thành các loại khác nhau.
Xét về quy mô, gia đình có thể phân loại thành:
Gia đình hai thế hệ (hay gia đình hạt nhân): là gia đình bao gồm cha mẹ và
con.
Gia đình ba thế hệ (hay gia đình truyền thống): là gia đình bao gồm ông bà,
Gia đình bốn thế hệ trở lên: là gia đình nhiều hơn ba thế hệ. Gia đình bốn
thế hệ còn gọi là tứ đại đồng đường.
thể phân chia gia đình thành hai loại:
Gia đình lớn (gia đình ba thế hệ hoặc gia đình mở rộng) thường được coi là
gia đình truyền thống liên quan tới dạng gia đình trong quá khứ. Đó là một
nhóm người ruột thịt của một vài thế hệ sống chung với nhau dưới một mái
nhà, thường từ ba thệ hệ trở lên, tất nhiên trong phạm vi của nó còn có cả
những người ruột thịt từ tuyến phụ. Dạng cổ điển của gia đình lớn là gia đình
trưởng lớn, có đặc tính tổ chức chặt chẽ. Nó liên kết ít nhất là vài gia đình nhỏ
và những người lẻ loi. Các thành viên trong gia đình được xếp đặt trật tự theo ý
muốn của người lãnh đạo gia đình mà thường là người đàn ông cao tuổi nhất
trong gia đình. Ngày nay, gia đình lớn thường gồm cặp vợ chồng, con cái của
11
họ và bố mẹ của họ nữa. Trong gia đình này, quyền hành không ở trong tay của
người lớn tuổi nhất.
Gia đình nhỏ (gia đình hai thế hệ hoặc gia đình hạt nhân) là nhóm người thể
hiện mối quan hệ của chồng và vợ với các con, hay cũng là mối quan hệ của
một người vợ hoặc một người chồng với các con. Do vậy, cũng có thể có gia
đình nhỏ đầy đủ và gia đình nhỏ không đầy đủ. Gia đình nhỏ đầy đủ là loại gia
đình chứa trong nó đầy đủ các mối quan hệ (chồng, vợ, các con); ngược lại, gia
đình nhỏ không đầy đủ là loại gia đình trong nó không đầy đủ các mối quan hệ
đó, nghĩa là trong đó chỉ tồn tại quan hệ của chỉ người vợ với người chồng hoặc
chỉ của người cha hoặc người mẹ với các con. Gia đình nhỏ là dạng gia đình
đặc biệt quan trọng trong đời sống gia đình. Nó là kiểu gia đình của tương lai
và ngày càng phꢀ biến trong xã hội hiện đại và công nghiệp phát triển.
Kế hoạch hóa gia đình
Bản, chính phủ có biện pháp khuyến khích gia đình có thêm con nhằm tránh giảm
dân số. Mặc dù đã có những chính sách nhất định về Kế hoạch hóa sinh con, nhưng
nhiều hộ gia đình vẫn có tâm lý khác nhau:
- Một mặt do gia đình có điều kiện, sinh cho vui cửa vui nhà
- Mặt khác do sinh con 1 bề & muốn có người nối dõi
1.3. Các chức năng của gia đình
Gia đình có 2 chức năng cơ bản sau:
1. Tạo ra một thế hệ mới bao gồm cả việc sinh đẻ và giáo dục đào tạo: Chức
sinh ra con cái). Đây là chức năng quan trọng nhất của gia đình, bởi nó tạo ra nòi
o
Chức năng giáo dục của gia đình: cha mẹ, ông bà giáo dục con cháu
mình, qua đó góp phần duy trì truyền thống văn hóa, đạo đức của xã hội.
2. Nuôi dưỡng, chăm sóc các thành viên trong gia đình: gia đình thoả mãn
những nhu cầu tâm - sinh lý, tình cảm của các thành viên.
Sự hình thành gia đình là căn bản trong tiến trình tiến hóa xã hội. Chế độ mẫu hệ
được nhận thức từ trong chế độ công xã thị tộc và là bước phát triển khi con người
bước ra khỏi cuộc sống quần hôn, mối liên hệ trai gái chưa quan niệm được là vợ
người ý thức được mối tương quan vợ chồng, con cái. Trong xã hội mà gia đình
chưa đòi hỏi phải tích lũy nhiều tài sản, cuộc mưu sinh chủ yếu cấy cầy và gặt hái.
Đây là công việc thường xuyên người phụ nữ đóng vai trò chủ động bên cạnh sinh
sản và chăm sóc nuôi dưỡng con cái. Gia đình Trung Hoa theo chế độ phụ hệ từ
thời nhà Hán (hai ngàn năm trước Tây lịch) và truyền sang Việt Nam từ thời Bắc
12
tiến trình tự nhiên mà là do bởi áp lực chính trị và xã hội của Trung Hoa áp đặt.
Ngay trong áp lực nầy, xã hội Việt Nam cũng không hoàn toàn nhắm mắt đưa
chân. Các gia đình Việt Nam vẫn dành cho người mẹ, người vợ một lòng trân trọng
đáng kể. Nói chung, gia đình trên phương diện xã hội bao gồm một số các chức
năng căn bản. Theo giáo sư Phạm Hồng Lam, đó là:
o - Chức năng truyền sinh: gia đình là đꢁnh chế duy nhất trong đó sự liên hệ
tình dục được xã hội chấp nhận để lưu truyền sự sống, tiếp nối dòng tộc.
o - Chức năng giáo dục: gia đình là môi trường chính yếu và đầu đời trong
việc giáo dục con cái và giꢂp chꢂng học tập các vai trò sau nầy.
o - Chức năng phân phối lao động và chăm lo kinh tế: phân công lao động
để nuôi sống mọi thành viên, chăm sóc cuộc sống vật chất.
o - Chức năng tôn giáo: đặc biệt trong các xã hội theo tôn giáo truyền thống,
thờ ông bà tꢀ tiên, gia đình là nơi tồn trữ và truyền bá niềm tin và việc thờ
tự.”[21] Ngoài ra người ta còn đề cập tới chức năng điều hòa tình cảm và giải
trí của gia đình. Các chức năng cổ điển của định chế gia đình là phổ quát và
quyết định trong xã hội cổ xưa lấy nông nghiệp làm căn bản.
Theo Lê Ý Thu trong tác phẩm Cuộc Sống Gia Đình được biên soạn theo tác
phẩm Familyhood của nhà xuất bản Simons Shuster, 1992, thì ẩn chứa sau những
ngôn từ khô khan biểu hiện các chức năng gia đình, người ta nhận ra được ý nghĩa
gắn kết, chăm lo và dậy dỗ. Những ý nghĩa sau đây luôn đi liền với tình cảm và giá
trị của gia đình ở mọi thời đại và mọi nơi.
o - Sự gắn kết: đòi buộc vợ chồng yêu thương, chung lưng đấu cật để mang
lại phꢂc lợi lâu dài cho mọi thành viên.
o - Sự chăm lo: diễn đạt qua những từ ngữ chia sẻ, nuôi dưỡng, quan tâm mà
ai cũng thừa nhận và thường hiểu chỉ có trong gia đình.
o - Sự dạy dỗ những giá trị: là chức năng gắn bó mật thiết với đời sống gia
đình, vì gia đình là nơi duy nhất hầu hết các giá trꢁ cơ bản được thấm nhuần
1.3.1. Chức năng sinh sản
1.3.2. Chức năng kinh tế
1.3.3. Chức năng giáo dục
1.4. Vai trò của gia đình
Những năm qua, trong các văn kiện của Đảng đều đề cập đến việc xây dựng
gia đình thời đại mới, khẳng định vai trò của gia đình đối với sự phát triển của đất
nước. Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh
phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội”. Hội nghị lần thứ 8 Trung ương khóa
XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “...Tạo lập môi trường sống an toàn, thân thiện,
phát triển toàn diện cho thanh, thiếu niên, trẻ em. Quan tâm chăm sóc và phát huy
vai trò người cao tuổi. Chú trọng công tác gia đình, thực hiện bình đẳng giới và
giảm mất cân bằng giới tính trẻ sơ sinh...”. Điều đó cho thấy trong giai đoạn hiện
nay gia đình có vị trí, vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội.
GIA ĐÌNH KHÔNG CHỈ LÀ MỘT TẾ BÀO CỦA XÃ HỘI
Gia đình không chỉ là “tế bào” tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế của xã
hội. Gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân
13
lực chất lượng cao phục vụ đất nước. Gia đình có vai trò quyết định đối với sự hình
thành và phát triển của xã hội. Những chuẩn mực giá trị tốt đẹp của gia đình được
tiếp nhận, phát triển góp phần xây dựng, tô thắm, làm rạng rỡ thêm bản sắc văn
hóa dân tộc. Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: Gia đình là môi trường quan trọng,
trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách, góp phần chăm lo xây dựng
con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân,
có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc
tế chân chính.
Con người Việt Nam chỉ có thể được trang bị những phẩm chất tốt đẹp nếu
có một môi trường xã hội tốt. Môi trường đó trước hết là từ mỗi gia đình, mỗi tế
bào của xã hội. Gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội về sản phẩm của gia đình
mình, có trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp cho xã hội những
công dân hữu ích. Cùng với nhà trường, gia đình tham gia tích cực nhiệm vụ “dạy
người, dạy chữ”, tạo ra lực lượng lao động tương lai chất lượng cao. Gia đình
chính là “đơn vị xã hội” đầu tiên cung cấp lực lượng lao động cho xã hội. Từ
những người lao động chân tay giản đơn đến lao động trí óc... đều được sinh ra,
nuôi dưỡng và chịu sự giáo dục của gia đình.
Gia đình không chỉ giữ vai trò nền tảng, tế bào của xã hội mà còn là môi
trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách con trẻ. Gia
đình là nơi giữ gìn, vun đắp, phát huy những giá trị truyền thống quý báu của con
người Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã hình thành trong quá trình lịch sử dựng
nước, giữ nước. Đó là lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn
nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù, sáng tạo trong lao động, bất khuất
kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách...
Gia đình cũng là nơi tiếp thu, giữ gìn và lưu truyền các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc. Thông qua các câu chuyện cổ tích, ca dao, tục ngữ, cha mẹ, ông
bà là những người thầy đầu tiên dạy dỗ, nuôi dưỡng tâm hồn, phát triển tư duy và
từng bước giáo dục hình thành nhân cách cho mỗi con người. Qua lao động, qua
việc xử lý các mối quan hệ hằng ngày, gia đình đã truyền thụ cho con trẻ những nét
đẹp của truyền thống gia đình, dòng họ, truyền thống văn hóa dân tộc. Từ đó mỗi
cá nhân hình thành và bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tình cộng
đồng, lòng nhân ái, tinh thần tự lực, tự cường, anh hùng trong chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc, bảo vệ hòa bình, chăm chỉ cần cù trong lao động sản xuất... Gia đình cũng
giữ vai trò đặc biệt quan trọng tới số lượng, chất lượng dân số và cơ cấu dân cư của
quốc gia.
NỀN TẢNG TỪ NHỮNG “VIÊN GẠCH” ĐẦU TIÊN
Trong mỗi gia đình, vai trò của cha mẹ có vị trí tối quan trọng. Theo truyền
thống Việt Nam, đàn ông thường là chủ của gia đình. Người cha là trụ cột, là biểu
hiện của nhân cách văn hóa cao đẹp nhất để con cái học tập và noi theo. Còn người
mẹ là chỗ dựa, là hạt nhân tâm lý chủ đạo, nguồn lửa sưởi ấm yêu thương trong gia
đình, nguồn tình cảm vô tận cho các con. Vì thế, gia đình là cái nôi văn hóa đầu
tiên hình thành nhân cách cho trẻ em.
Xã hội chuyển động ngày một nhanh hơn, các “tế bào” của xã hội chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của thế giới bên ngoài, đặc biệt là từ thế giới internet, chịu tác
14
động bởi nền kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường nên văn hóa gia đình đang có
biểu hiện xuống cấp vì những tác động xấu của đời sống xã hội. Mặt trái của nền
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã kích thích nhu cầu ham muốn vật chất, ít
chú trọng đời sống tình cảm tinh thần, tình trạng xung đột gia đình dẫn đến đổ vỡ
và ly hôn ngày càng gia tăng, làm cho gia đình không được bền vững. Vì thế, để
tạo dựng nền tảng vững chắc cho thế hệ tương lai, phải bắt đầu giáo dục con trẻ
trong gia đình - trước khi những mầm non ấy đặt chân tới trường và tiếp xúc với
môi trường xã hội. Đó được xem là những viên gạch đầu tiên để xây dựng nên
nhân cách của một con người, một thế hệ.
Và trong giai đoạn hiện nay, để “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc”, cần sự chung tay góp sức của toàn xã hội, là trách nhiệm
của mỗi gia đình, mỗi con người cụ thể.
Chương 2: Văn hóa gia đình truyền thống
Mục tiêu:
- Trình bày lịch sử gia đình Việt Nam
- Trình bày và phân tích các yếu tố chi phối văn hóa gia đình truyền thống
Việt Nam.
- Trình bày một số biểu hiện cụ thể của văn hóa gia đình truyền thống Việt
Nam.
- Nêu các giải pháp và nhiệm vụ cơ bản của quản lý Nhà nước về văn hóa.
Nội dung:
2.1. Lịch sử gia đình Việt Nam
Lịch sử gia đình Việt Nam gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển
của đất nước qua từng thời kỳ. Tìm hiểu về gia đình Việt nam phải đặt nó bên
cạnh sự hình thành tồn tại và phát triển của cơ cấu tổ chức làng Việt cổ
truyền với nhiều bộ phận dân cư khác nhau.
Từ thế kỷ XV trở đi, cùng với việc xác lập xã hội phong kiến sùng thượng
Nho giáo, gia đình Việt Nam đã ổn định, có nề nếp, có truyền thống dựa trên
những nguyên lý tu thân, tề gia đưa gia đình vào khuôn phép được coi như chân lý
ngàn đời. Ở xã hội phong kiến, nước ta có ba loại gia đình: gia đình bình dân, gia
đình kẻ sĩ và gia đình quý tộc.
Gia đình bình dân là loại gia đình chiếm đại đa số của dân nông nghiệp, thủ
công và các ngành nghề, các tầng lớp khác nhau. Những gia đình này đều được
xem là tuân theo phép tắc của đạo Nho. Gia đình bình dân là gia đình hòa thuận
(thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn), là gia đình lao động, có sự phân
công nhịp nhàng (chồng cầy, vợ cấy con trâu đi bừa), là gia đình không tán thành
chế độ đa thê (đói no một vợ một chồng, một niêu cơm tấm dẫu lòng ăn chơi). Gia
đình bình dân cũng là gia đình biết nhường nhịn nhau (chồng giận thì vợ bớt lời),
gia đình không phân trai gái nặng nhẹ (trai mà chi, gái mà chi, sinh ra có nghĩa, có
nghì là hơn).
Gia đình kẻ sĩ là loại gia đình gắn chặt với văn hóa Nho giáo một cách nghiêm túc
hơn và có truyền thống dân tộc rất cao. Đặc biệt kẻ sĩ chân chính có ảnh hưởng rất
15
sâu sắc đến vợ con và cả anh em họ hàng. Kẻ sĩ biết lựa chọn trong văn hóa của
Nho của phật những gì thích hợp với gia đình và rất có ý thức về cái nòi, cái nếp
tức là rất chú trọng tới gia phong, gia lễ. Họ quan tâm đến lịch sử gia đình, lịch sử
gia tộc và có khi là những gia tộc lớn (có những cuôn sgia phả đại tông được soạn
rất công phu). Đặc điểm nổi bật của các gia đình kẻ sĩ là công phu đọc sách và ý
thức với vận mệnh dân tộc. Nhưng vì chú ý đọc sách nên họ không quan tâm đến
lao động sản xuất, trong gia đình hoàn toàn trông cậy vào sự tần tảo của người vợ:
Một quan là sáu trăm đồng, chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi và Quanh năm
buôn bán ở non sông, nuôi đủ năm con với một chồng. Người phụ nữ trong các gia
đình kẻ sĩ cũng chấp nhận vai trò này, không phàn nàn, không tị nạnh mà còn lấy
làm vinh hạnh.
Gia đình quý tộc là gia đình hoàng tộc (các vua chúa) các nhà quan to, tước
lộc lớn. Những gia đình loại này tất nhiên có nề nếp, có phong cách của tầng lớp
quý tộc trong xã hội phong kiến. Các gia đình quý tộc thường không bền vững, có
nhiều gia đình suy thoái, tha hóa, thậm chí còn để lại điều tiếng trong lịch sử. Các
ông vua, ông hoàng, bà hoàng thời Lê, thời Nguyễn sau này thường không giữ
được tư cách.
Nhìn chung, chế độ phong kiến Việt Nam đã củng cố cho chế độ gia đình đi vào
nền nếp một cách đắc lực. Vua chúa và triều đình còn biết sử dụng luật pháp để
bảo vệ gia đình. Vua Lê Thánh Tông ban đến 24 điều giáo huấn. Các luật ở triều
Lê, luật Hồng Đức, luật Gia Long… có nhiều điều khoản đảm bảo quyền lợi, vị trí
của cha mẹ, đề ra những quy phạm cho con cháu phải tuân theo.
Từ cuối thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, gia đình Việt nam
có rất nhiều biến đổi. Trước hết là sự thăng trầm của ba hình thái gia đình trên. Bên
cạnh đó, tình hình xã hội Việt Nam lúc này lại xuất hiện những kiểu gia đình mới:
gia đình công chức có chồng con ra làm việc cho chính quyền thực dân, những gia
đình tiểu tư sản, gia đình tư sản ở các thành thị. Những gia đình này rải rác có ít
nhiều chịu ảnh hưởng của giáo dục Nho giáo, của nề nếp phong kiến hoặc của văn
hóa truyền thống bản địa nhưng đã có thay đổi nhiều, tiếp nhận những yếu tố ngoại
lai.
Từ Cách mạng tháng Tám trở đi, đất nước tiến hành hai cuộc kháng chiến. Với tình
hình xã hội, tình hình kinh tế biến chuyển, diện mạo gia đình tự nó cũng có nhiều
biến đổi quan trọng. Các kiểu gia đình kẻ sĩ, gia đình nông dân, gia đình quý tộc
được thay thế bằng hình thái gia đình khác. Vấn đề nam nữ bình quyền được hiến
pháp chấp nhận, các đoàn thê rphuj nữ hoạt động mạnh, đã đến lúc người phụ nữ
không còn bị bó buộc trong phạm vi gia đình như trước. Thời kỳ này, trong xã hội
có hai loại gia đình: gia đình xã viên và gia đình công nhân, viên chức.
Gia đình xã viên tập trung nhiều ở vùng nôn thôn với đặc điểm: làm ăn tất bật, đời
sống không khá hơn đời sống của trung nông ngày xưa. Gia đình công nhân, viên
chức tập trung chủ yếu ở thành phố, thị xã, thị trấn có đời sống sinh hoạt thiếu
thốn, khó khăn.
2.1.1. Thế kỷ 15 Thời đại phong kiến
2.1.2. Thế kỷ 19 cùng với sự xuất hiện của thực dân, buôn bán
2.1.3. Sau hoà bình lập lại cùng với cải cách ruộng đất, công thương nghiệp
16
2.1.4. Gia đình truyền thống là gia đình trước khi tiếp nhận văn hóa phương
tây
2.2. Những yếu tố chi phối văn hóa gia đình truyền thống Việt Nam
Gia đình Việt Nam cuối thập kỷ thứ nhất, đầu thập kỷ thứ hai của thế
kỷ XXI đã và đang vận hành và chịu tác động đa chiều bởi nhiều yếu tố khách
quan và chủ quan; đã và đạng tạo nên những vấn đề rất cần được quan tâm
trong cái nhìn phát triển bền vững. Dù trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội, văn
hóa…nào đi chăng nữa thì Gia đình vẫn là môi trường quan trọng để hình
thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người - chủ thể văn hóa, đồng
thời gia đình cũng là một trong những nền tảng quan trọng để góp phần xây
dựng thành công một xã hội phát triển bền vững.
Gia đình tiếp cận trong tham luận này được quan sát từ góc độ Thiết chế xã
hội và Tế bào văn hóa của xã hội trong sự vận động và chịu tác động của những
yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội…mới với một vài chia sẻ để cùng suy ngẫm. Tuy
nhiên đây là vấn đề lớn cần sự chung tay của nhiều người, trong những khoàng
thời gian cần thiết.
1. Những tác động đến cấu trúc gia đình Việt Nam truyền thống
Cấu trúc gia đình truyền thống trong bối cảnh kinh tế thị trường, đô thị hóa,
công nghiệp hóa đã và đang chịu nhiều tác động về cấu trúc trên các phương diện
cơ bản sau:
a) Sự suy giảm ngày càng gia tăng của gia đình nhiều thế hệ
Đây là hiện tương không mới nhưng trong bối cảnh hiện nay, xu hướng của
các cặp vợ chồng trẻ là muốn sống độc lập ở khu vực nông thôn và thành thị;
không chỉ ở đồng bằng mà cả vùng miền núi, vùng dân tộc thiểu số.
Ở khu vực nông thôn, khi kinh tế công nghiệp, nhà máy thu hút nhiều lao
động, việc làm, đồng lương so với lao động nông nghiệp cao hơn thì nhiều lao
động trẻ không tha thiết với đồng ruộng…muốn ở riêng để tự lập về cuộc sống gia
đình. Chỉ một bộ phận không lớn do hoàn cảnh khó khăn vẫn ở chung với bố mẹ
và nhờ cậy trông nom con cái còn nhỏ và chăm sóc ruộng vườn…
Ở đô thị, mặc dù còn không ít khó khăn về nhà ở nhưng những cặp vợ chồng
trẻ, nhất là có thu nhập tương đối cao, dù là con một những vẫn không muốn ở
cùng bố mẹ đẻ. Vấn đề ở đây không phải vì lý do kinh tế, mà là sự nhận thức của
các chủ nhân các gia đình trẻ về văn hóa, giá trị và ý nghĩa của gia đình…
Cả hai trường hợp trên diễn ra cho thấy sự ảnh hưởng tác động hữu hình và
vô hình của các yếu tố chủ quan và khách quan đến cấu trúc gia đình. Tình hình đó
cho thấy không chỉ biến đổi về mô hình gia đình mà còn là những mối quan hệ,
ứng xử giữa các thành viên trong gia đình. So với gia đình truyền thống số thời
gian giữa các thành viên dành cho nhau ngày một ít đi, sự giao tiếp giữa bố mẹ -
con cái, ông bà - cháu chắt và các thành viên trực hệ khác ngày càng ít dần. sự chia
sẻ thông tin trong đới sống làm ăn, tâm lý, tình cảm, giao tiếp không còn như
trước…Điều đó là một trong những nguyên nhân cơ bản từ bên trong tạo nên sự
“rạn nứt”, sự yếu kém ngày một gia tăng trong cấu trúc gia đình, thậm chỉ cả gia
đình hạt nhân của các cặp vợ chồng trẻ.
b) Xu hướng thiếu bền chặt trong cấu trꢂ, thiết chế gia đình ngày một gia tăng
17
Trong xã hội truyền thống mô hình “ngũ đại, tứ đại đồng đường” vùng
người Kinh và nhiều thế hệ làm chung, sống chung vùng đồng bào dân tộc thiểu là
không hiếm gặp. Điều kiện vật chất không được như hiện nay, nhưng mô hình đó
cho thấy những giá trị cao về nhân văn, về văn hóa ứng xử, trách nhiệm giữa các
thành viên có cùng quan hệ dòng máu và quan hệ hôn nhân. Ngày nay nhìn lại
chúng ta thấy cái nổi trội là giá trị sống, giá trị nhân văn… của gia đình vượt lên
trên những khó khăn về điều kiện kinh tế, vật chất.
Trong xã hội hiện đại, kinh tế gia đình có thể nói khá cao so với trước nhưng
sự thiếu bền chặt trong cấu trúc gia đình ngày một gia tăng. Tỷ lệ ly hôn của các
cặp vợ chồng trẻ có điều kiện kinh tế (lương cao, nhà chung cư, đi làm bằng xe
hơi, có người giúp việc, trông nom con cái…) . Sự mâu thuẫn giữa tăng trưởng
kinh tế tỷ lệ nghịch với sự phát triển về văn hóa và các giá trị đao đức xã hội trong
đó có gia đình là một thực tại.
c) Sự chuyển đối vꢁ thể của các thành viên trong ga đình
Trong cấu trúc gia đình Việt Nam hiện nay vị thế của các thành viên có sự
chuyển đổi so với trước. Đó là vị thế của người Vợ hoặc Chồng, Bố mẹ và Con
cái…Tuy từng gia đình cụ thể mà mà vị thể các thành viên diễn ra khác nhau, khác
xa so với xã hội truyền thống với vị thế gần như tuyệt đối của nam giới. Ai là
người làm chủ có vị thế chi phối các hoạt động gia đình ? Ai là người ra quyết định
triển khai các công việc và chi tiêu tài chính trong gia đình ?...Đâylà những vấn đề
cụ thể nhưng có ý nghĩa đối với sự phát triển gia đình và sự phát triển bền vững
của địa phương, quốc gia.
d) Sự phân hóa mô hình gia đình
Xã hội xuất hiện những “loại gia đình mới” nhưng chưa được nghiên cứu,
tổng kết, đánh giá, đó là phân loại mức sống gia đình. Trong bối cảnh kinh tế thị
trường xuất hiện những “gia đình đại gia” làm ăn chân chính và những “gia đình
đại gia” làm ăn bất chính; những “gia đình quan chức” có mức sống cao với những
“đồng tiền sạch” và “gia đinh quan chức” có điều kiện vật chất “sung túc bất
thường” với những “đồng tiền không sạch”; xuất hiện không ít gia đình nghèo, cận
nghèo và gia đình mức sống trung bình.
Bên trong của các loại mô hình gia đình trên là hệ thống của sự mâu thuẫn
giữa sự giàu có và những giá trị văn hóa, giá trị sống, giá trị nhân văn. Không có
nghĩa nhà giàu, “đại gia” là thuộc loai gia đình được xếp loại “có văn hóa” ở cơ sở
và ngược lại. Bên trong các loại mô hình gia đình trên, nhất là những”đại gia bất
chính” về kinh doanh và về quan chức vừa biều lộ, vừa ẩn tàng những mầm họa
của dẫn đến sự hủy hoại của các giá trị sống, giá trị văn hóa gia đình và giá trị xã
hội .
2. Những tác động đến Văn hóa gia đình Việt Nam
2.2.1. Những điều kiện tự nhiên
Trong đề dẫn Hội thảo quốc tế về “Gia đình Việt Nam trong quá trình công
nghiêp hóa, hiện đại hóa và hội nhập từ cách tiếp cận so sánh” (2013), GS.TS.
Nguyễn Xuân Thắng đã đề cập đến một số vấn đề nghiên cứu đặt ra:
18
(1) Liệu có phải những gì đang diễn ra đối với gia đình ở các nước phát triển
sẽ là hình ảnh tương lai của gia đình Việt Nam nhìn từ góc độ lý thuyết hiện đại
hóa về gia đình ?
(2) Biến đổi gia đình Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại có những đặc
thù gì so với các nước ?
(3) Liệu quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế có làm
mất đi những giá trị bản sắc của gia đình Việt Nam ?
(4) Đâu là những giái pháp hiệu quả nhằm xây dựng gia đình Việt Nam no
ấm, tiến bộ và hạnh phúc trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế ?...1
Tôi đồng tình với những cách đặt vấn đề về cái nhìn giá trị truyền thống của
văn hóa gia đình Việt Nam và biến đổi, cái nhìn so sánh để chúng ta ý thức sâu sắc
về Văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay. Những vấn đề trên là cần thiết khi nghiên
cứu gia đình Việt Nam, đó cũng là cách quan sát văn hóa gia đình trong sự tác
động đa chiều, hữu hình và vô hình đến các giá trị văn hóa của nó.
Văn hóa gia đình là văn hóa của tế bào xã hội hay xã hội vi mô. Tiếp cận
văn hóa gia đình có nhiều góc nhìn khác nhau. Ở đây chúng ta quan sát tên một vài
khía cạnh chịu tác động như sau:
2.2.2. Điều kiện kinh tế
a) Tác động của tình hình kinh tế-xã hội, toàn cầu hóa đến hệ giá trꢁ văn
hóa gia đình
Đây là sự tác động toàn diện do điều kiện kinh tế-xã hội mới, hiện đại, lối
sống mới du nhập từ bên ngoài vào văn hóa gia đình, làm biến đổi nhận thưc, nếp
sống, hành vi trong các mối quan hệ, trong hoạt động giao tiếp, ứng xử giữa các
thành viên trong gia đình, giữa các gia đình, gia đình và dòng họ.
Các yếu tố kinh tế - xã hội trong xu thế toàn cầu hóa, bùng nổ của công nghệ
thông tin và truyền thông…đang từng ngày từng giới tá động đến lối sống gia đình,
quan hệ ứng xử giữa các thế hệ, các thành viên trong gia đình…với những xu
hướng tích cực song đáng báo động hơn là những xu hướng tiêu cực với những hệ
lụy khó lường, làm bào mòn đi các giá thị văn hóa gia đình. Thuần phong mỹ tục
được hình thành hàng ngàn năm.
2.2.3. Điều kiện chính trị - xã hội
b) Tác động toàn cầu hóa về kinh tế, văn hóa đến quan niệm giá trꢁ, đạo đức
gia đình
Đây là vấn đề có nhiều hệ lụy đến thuần phong, mỹ tục giá trị văn hóa gia
đình truyền thống Việt Nam dược tạo dựng trong quá trình lịch sử, văn hiến hàng
ngàn năm. Nhiều giá trị gia đình “lệch chuẩn” trong hệ giá trị truyền thống như:
“Trọng xỉ” (trọng lão), “Uống nước nhớ nguồn”, “Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy”,
“Anh em như thủ túc” (anh em như tay chân), “chị ngã em nâng”…Ngày nay có đủ
các điều kiện kinh tế, vật chất để thực hiện các nguyên tắc ứng xử nhân văn đó,
nhưng vì luồng gió dộc “vô cảm” nên không dễ thực hiện, dễ được chứng kiến.
c) Sự biến đꢀi của các giá trꢁ ứng xử văn hóa trong gia đình trong sự tác
động của kinh tế thꢁ trường, lối sống công nghiệp hóa, hiện đại hóa
19
Trong bối cảnh trên, mối quan hệ giữa các thành viên, các thế hệ trong gia
đình ngày một lỏng lẻo, thiếu gắn kết. Quan hệ giữa Bố mẹ - Con cái, Ông bà -
Con cháu, Anh (chị) - Em; Vợ - Chồng…không còn đằm thắm mặn nồng như
trong xã hội nông nghiệp, văn minh làng xã trước đây. Các thành viên trong gia
đình ít có thời gian dành cho nhau hơn, nếu có thì lối ứng xử giao tiếp cũng còn
vấn đề phải bàn luận.
Lối sống thiếu trách nhiệm, ít tình thương của các thành viên gia đình với
nhau không phai khó tìm. Lối sống vô cảm ngoài xã hội cũng đã len lỏi vào không
ít gia đình. Một bộ phận con người trong gia đình có thiên hướng ích kỷ trong lối
sống, nếp sống; thiếu quan tâm đến bố mẹ, ông bà, anh chị em, người thân…họ lo
kiếm tiền, mua sắm cho bản thân, đi du lịch…mà không cần biết người thân xung
quanh mình đang sống như thế nào, cần cái gì, mong muốn cái gì.
Tóm lại, gia đình, văn hóa gia đình hiện nay đã và đang chịu tác động của
nhiều yếu tố khách quan và chủ quan theo hai xu hướng tích cực và tiêu cực. Trong
sự nghiệp xây dựng gia đình văn hóa mới và quản lý nhà nước về công tác gia
đình, có thể xem đây là vấn đề chính diện để tiệm cận tìm ra các nội dung, giải
pháp sát hợp với tình hình thực tiễn nhằm mang lại nhừng hiệu quả, góp phần vào
sự phát triển bền vững trong xây dựng văn hóa gia đình và văn hóa Việt Nam tròn
bối cảnh tình hình hiện nay.
Trong giai đoạn vừa qua cũng như sắp tới, vấn đề công tác gia đình trên bình
diện “quản lý” cũng như “chiến lược phát triển” đã được Đảng, Nhà nước quan
tâm tạo các cơ sở pháp lý, định hướng nội dung hoạt động. Song câu hỏi đặt ra là:
Vì sao hiệu quả, sự lan tỏa các giá trị văn hóa gia đình mang bản sắc Việt Nam
trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa chưa đạt các mục tiêu,
nhiệm vụ đề ra. Trên bình diện khoa học, lý luận và thực tiễn có thể nhận thấy đây
là vấn đề cần được sự quan tâm, đầu tư có tính dài hơi mang tính quốc gia về
nguồn lực đi đôi với vấn đề nhận thức vị thế vai trò của công tác gia đình trong
mối quan hệ với phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, văn hóa, hợp tác toàn cầu hóa
hiện nay.
Nói các yếu tố tác động đến gia đình và văn hóa gia đình thực chất là nói
đến mối quan hệ sự biến đổi và đi tím giải pháp hữu hiệu cho phát triển gia đình
Việt Nam giàu bản sắc trong bối cảnh kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa hiện nay./.
a. Đặc điểm chung
b. Làng là cơ sở của quốc gia
c. Mối quan hệ giữa làng và nước
2.2.4. Điều kiện văn hóa tư tưởng
a. Văn hóa bản địa Đông Nam Á
b. Văn hóa Phật giáo
c. Tiếp nhận văn hóa Nho giáo
d. Tiếp nhận văn hóa Kito giáo (Thiên chúa giáo)
2.3. Một số biểu hiện của văn hóa gia đình truyền thống Việt Nam.
2.3.1. Văn hóa ứng xử của gia đình với môi trường tự nhiên
20
Con người sống trong quan hệ chặt chẽ với tự nhiên – cách thức ứng xử với
môi trường tự nhiên là thành tố quan trọng thứ ba của mỗi hệ thống văn hóa.
Trong việc ứng xử với môi trường tự nhiên có thể xảy ra hai khả năng: những gì có
lợi cho mình thì con người hết sức tranh thủ tận dụng, còn những gì có hại thì phải
ra sức ứng phó. Việc ăn uống là thuộc lĩnh vực tận dụng môi trường tự nhiên. Còn
mặc, ở và đi lại thuộc lĩnh vực ứng phó: mắc và ở là để ứng phó với thời tiết, khí
hậu; đi lại là ứng phó với khoảng cách.
Ranh giới giữa tận dụng và ứng phó không phải lúc nào cũng rạch ròi. Để
ứng phó với thời tiết, khí hậu, con người đã tận dụng các chất liệu do tự nhiên cung
cấp để làm vải mặc, để dựng nhà, tận dụng vị trí tự nhiên để đặt ngôi nhà sao cho
có lợi nhất. Để ứng phó với khoảng cách, con người đã tận dụng tối đa địa hình địa
vật để chọn cho mình phương tiện giao không thuận tiện nhất – ở Việt Nam là giao
thông đường thủy.
Như vậy, phần này sẽ nghiên cứu 3 vấn đề sau:
2.3.2. Văn hóa ứng xử của gia đình với môi trường xã hội
hực tế khẳng định, con người chỉ có thể được trang bị những phẩm chất tốt
đẹp nếu có một môi trường xã hội tốt. Môi trường đó trước hết là từ mỗi gia
đình, mỗi tế bào của xã hội.
Ðảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm xây dựng gia
đình trong thời đại mới, khẳng định vai trò của gia đình đối với sự phát triển đất
nước. Theo đó, cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các địa phương cả nước đã ban hành
nhiều giải pháp, phát động các phong trào thi đua nhằm tăng cường xây dựng đời
sống văn hóa khu dân cư, tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình.
Gần đây, TP Hà Nội triển khai thí điểm Bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình tại năm
xã, phường của thành phố. Theo đó, tại xã Phú Cường (huyện Ba Vì), nơi mang
đặc trưng văn hóa nông thôn, các hộ gia đình đăng ký thực hiện theo từng tiêu chí:
Ứng xử vợ chồng; ứng xử cha mẹ với con, ông bà với cháu; ứng xử con với cha
mẹ, cháu với ông bà; ứng xử của anh, chị, em…
Thực hiện các tiêu chí nêu trên, ông bà và các con cháu càng cảm thấy trách
nhiệm hơn trong ứng xử giữa các thành viên trong gia đình. Ông bà mẫu mực, con
cháu lễ phép, trên kính dưới nhường, cùng biết chia sẻ, thấu hiểu. Qua hơn nửa
năm triển khai thí điểm, mới đây, thành phố Hà Nội đã tiến hành nhân rộng việc
thực hiện Bộ tiêu chí ứng xử nêu trên đến nhiều địa bàn dân cư. Gắn liền với đó,
ngành văn hóa tăng cường tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục đạo đức,
lối sống trong gia đình; phòng, chống bạo lực gia đình.
Truyền thống văn hóa, đạo đức gia đình Việt Nam đang chịu nhiều tác động
của cuộc sống hiện đại. Gia đình có vị trí, vai trò rất quan trọng trong đời sống xã
hội. Hiện nay, đạo đức, lối sống ở một số địa bàn, bộ phận dân cư có mặt xuống
cấp; môi trường văn hóa có những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với
thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có chiều hướng gia
tăng…
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Văn hóa gia đình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- giao_trinh_van_hoa_gia_dinh.pdf