Đề cương ôn tập môn Triết học - Câu 7 (Có đáp án)
Câu 7: Nhà nước và pháp luật (Tám)
Nhà nước VN XHXN là nhà nước pháp quyền XHCN, nhà nước ta lấy pháp luật để quản
lý và điều hành xã hội, dùng pháp luật làm công cụ điều tiết chủ yếu mối quan hệ giữa con
người với con người, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp
luật nhằm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do dân chủ. Tuy nhiên dù nhà nước là người
ban hành pháp luật nhưng cũng chính nhà nước cũng là chủ thể thi hành pháp luật, phải
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Mặt khác, pháp luật XHCN cũng quy định tổ chức và hoạt
động của nhà nước. Như vậy, nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng song hành không thể
tách rời nhau, đồng thời có mối liên hệ hữu cơ với nhau.
1. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật.
Tính pháp quyền XHCN được thể hiện ở các đặc trưng như sau :
- Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước trong đó quyền dân chủ, quyền tự do và lợi
ích chính đáng của con người, của công dân được nhà nước bảo đảm và bảo vệ.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp để điều
chỉnh các lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội và pháp luật giữ vai trò tối cao. Nhà nước pháp
quyền quản lý và điều hành xã hội bằng pháp luật, dùng pháp luật làm công cụ điều tiết chủ
yếu mối quan hệ giữa con người với con người, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh, kịp
thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do dân chủ, đặc biệt
là quyền tự do kinh doanh và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn ngừa sự tuỳ tiện lạm dụng
từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, đồng thời ngăn ngừa hiện tượng dân
chủ cực đoan, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó xác định rõ trách nhiệm của cả hai bên:
nhà nước và công dân trên cơ sở pháp luật, quyền của nhà nước là nghĩa vụ của công dân,
quyền của công dân là nghĩa vụ của nhà nước
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó quyền lực nhà nước được thực hiện theo
cơ chế quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phù hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong vịêc thực hiện các quyền : hành pháp, lập pháp và tư pháp.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước có những hình thức giám sát, kiểm tra, thanh tra,
xét xử có hiệu quả việc thực hiện pháp luật và có một hệ thống tài phán hoàn chỉnh (của cả cơ
quan tư pháp và cơ quan hành chính).
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nhà nước CHXHCN
Việt Nam còn là nhà nước thống nhất của các dân tộc, dân chủ thực sự, phát huy mạnh mẽ
quyền làm chủ của nhân dân.
Hiện nay, trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền cũng như sự nghiệp cách mạng đang
đòi hỏi một hệ thống pháp luật để làm cơ sở cho sự thống nhất quản lý nhà nước và hành vi
của công dân. Viêc xây dựng luật pháp vừa qua tuy đã có nhiều có gắng nhưng luật pháp vẫn
chưa bao trùm hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội. Để luật pháp thật sự là cơ sở pháp lý
của nhà nước và hành vi của công dân thì phải giáo dục rộng rãi luật pháp cho toàn dân,
nhưng công tác này những năm qua chưa thực hiện tốt và hiệu quả. . Việc quản lý thực hiện
theo pháp luật chưa chặt chẽ, việc ngăn chặn các tệ nạn xã hội kém hiệu quả lại .. ngoại việc
thiếu sót chủ quan của bộ máy nhà nước thì còn do luật pháp chưa đầy đủ, cơ chế có nhiều sơ
hở, ngay cả những vấn đề đã có luật pháp nhưng chưa quản lý việc thi hành luật pháp không
chặt chẽ và xử lý những vụ vi phạm luật pháp không nghiêm, thậm chí còn có cả tiêu cực
trong việc xử lý các vi phạm luật pháp
1
2. Định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCNVN
a) Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền XHCNVN
b) Đổi mới vai trò và chức năng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế;
Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cần được tiến hành đồng bộ, từ việc
xác định vị trí trụ cột của Nhà nước trong hệ thống chính trị, cơ cấu lại chức năng, nhiệm vụ
và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, thực hành và phát huy dân chủ đến việc đổi mới từng bộ phận cấu
thành bộ máy nhà nước: Quốc hội, Chính phủ, cơ quan tư pháp và chính quyền địa phương.
c) Đổi mới các cơ quan tư pháp và thủ tục tư pháp theo các yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Trọng tâm của cải cách tư pháp chính là cải cách tổ chức và hoạt động của Toà án với
quan điểm Toà án là trung tâm của hệ thống tư pháp và sự độc lập của Toà án trong xét xử là
điều kiện cơ bản bảo đảm cho Toà án thực hiện vai trò của mình với tư cách cơ quan bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người.
Đổi mới mạnh mẽ pháp luật thủ tục về hoạt động tư pháp trong tất cả các lĩnh vực hình
sự, dân sự, hành chính… theo hướng chuyển các hoạt động xét xử của Toà án sang chế độ
tranh tụng để thật sự bảo đảm quyền bình đẳng của các bên trong quá trình tranh tụng tại
Toà án.
d) Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo hướng nâng cao chất lượng,
thực hiện tốt chức năng lập pháp và giám sát tối cao.
Hiến pháp năm 1992 đã xác định Quốc hội nước ta là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất với 3 chức năng: lập hiến, lập pháp, quyết định
các vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao.
Cần đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò của Quốc hội trong tổng thể bộ máy nhà nước, theo đó
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nhưng không phải toàn bộ quyền lực nhà
quyền chứ không phải là Quốc hội toàn quyền.
Đối với chức năng lập hiến và lập pháp, cần quán triệt nguyên tắc hiến định: Quốc hội là cơ
quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Để đảm bảo quyền này của Quốc hội, cần
nghiên cứu để hạn chế quyền ban hành pháp lệnh của Uỷ ban Th ường vụ Quốc hội, tiến tới
quy định Uỷ ban Thư ờng vụ Quốc hội không ban hành pháp lệnh, đồng thời phân định rõ
thẩm quyền lập pháp của Quốc hội với thẩm quyền lập quy của Chính phủ, từng bước hạn chế
uỷ quyền lập pháp.
Đối với việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội, vấn đề thiết thực và quan trọng
nhất là hiệu quả của sự giám sát thông qua cơ chế xử lý kết quả giám sát của Quốc hội, bảo
đảm các kết luận giám sát của Quốc hội phải được tôn trọng và thực hiện nghiêm túc bởi các
cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Để tạo lập được cơ chế giám sát tối cao một cách thực tế đối với hoạt động của nhà nước, cần
tổ chức nghiên cứu để tiến tới thành lập một cơ quan bảo hiến, đảm bảo địa vị tối cao, thiêng
liêng, bất khả xâm phạm của Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của nước ta.
Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), bảo đảm sự tương thích của pháp luật quốc gia với các không
gian pháp lý có tính quốc tế đang đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh việc đổi mới công tác lập
2
pháp. Chúng ta không những phải soạn thảo và thông qua nhiều đạo luật mới, mà còn phải rà
soát, sửa đổi toàn bộ những đạo luật đã có sao cho đáp ứng được yêu cầu của tình hình và
nhiệm vụ mới. Do vậy, công tác lập pháp của nước ta trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII trở
nên cấp bách hơn bất cứ thời kỳ nào trước đây.
e) Xây dựng một Chính phủ gọn về tổ chức, rõ về chức năng, hiệu lực, hiệu quả
trong hoạt động.
Để thực hiện tốt chức năng hành pháp của Chính phủ, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII
ghi rõ: “Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo
hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại. Luật hoá cơ
cấu, tổ chức của Chính phủ; tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn và
hợp lý. Phân cấp mạnh, giao quyền chủ động hơn nữa cho chính quyền địa phương, nhất là
trong việc quyết định về ngân sách, tài chính, đầu t ư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài
chính đối với Trung ương.
g) Đổi mới các cơ quan tư pháp và thủ tục tư pháp theo các yêu cầu của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trọng tâm của cải cách tư pháp chính là cải cách tổ chức và hoạt động của Toà án với quan
điểm Toà án là trung tâm của hệ thống tư pháp và sự độc lập của Toà án trong xét xử là điều
kiện cơ bản bảo đảm cho Toà án thực hiện vai trò của mình với tư cách cơ quan bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người.
"Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, quyền con người… Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động
xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra. Xây dựng cơ chế
phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”
Cần nghiên cứu để tiến tới tổ chức lại Viện Kiểm sát thành viện công tố; xác định lại vị trí,
phạm vi thẩm quyền của các cơ quan điều tra. Cơ cấu lại tổ chức và quản lý việc thi hành án;
nghiên cứu khả năng xã hội hoá các hoạt động bổ trợ t ư pháp, như luật s ư, công chứng,
giám định tư pháp…
Đổi mới mạnh mẽ pháp luật thủ tục về hoạt động tư pháp trong tất cả các lĩnh vực hình sự,
dân sự, hành chính… theo hướng chuyển các hoạt động xét xử của Toà án sang chế độ tranh
tụng để thật sự bảo đảm quyền bình đẳng của các bên trong quá trình tranh tụng tại Toà án
H) Đổi mới chính quyền địa phương đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề này, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã chỉ rõ: "Nâng cao chất lượng hoạt động
của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của
chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của hội đồng
nhân dân. Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối với chính
quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo"
Mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp cần bảo đảm sự thống
nhất không gian kinh tế và không gian pháp lý. Quyền tự chủ của chính quyền địa phương
phải đặt trong sự quản lý của Trung ương về thể chế và chính sách vĩ mô. Mỗi cấp chính
quyền là một bộ phận cấu thành của hệ thống hành chính nhà nước thống nhất. Do đó, không
thể coi việc đảm bảo quyền tự chủ của chính quyền địa phương như là sự thoát ly, tách rời
khỏi Nhà nước Trung ương và không thể làm phát sinh tình trạng cát cứ, cục bộ địa phương,
không để tạo ra sự đối lập lợi ích giữa địa phương và Trung ương.
Đổi mới, cải cách tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương phải gắn liền với việc đổi
mới tổ chức và hoạt động của tổ chức đảng ở các cấp địa phương.
3
g) Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức theo yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đội ngũ cán bộ, công chức luôn giữ vai trò quan trọng trong việc thực thi pháp luật, chính
sách của Đảng và Nhà nước đối với toàn bộ xã hội. Ngoài trình độ chuyên môn, đội ngũ cán
bộ công chức phải tận tuỵ phục vụ nhân dân mà tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
toả sáng trong cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" do
Đảng ta phát động và đang được toàn Đảng, toàn dân hưởng ứng. Thiết nghĩ, đây là dịp tốt
để mọi cán bộ, công chức, viên chức liên hệ vào công việc của mình đang đảm nhiệm, tạo
chuyển biến tốt để phục vụ nhân dân một cách thiết thực thì chắc chắn, Đảng và Nhà nước ta
tăng thêm được uy tín của mình đối với nhân dân. Đó cũng là cách thức tốt nhất để nhân dân
góp phần thiết thực vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
----------------
Để xây dựng nhà nước pháp quyền, bên cạnh việc tăng cường pháp chế XHCN, nhà nước
ta còn coi trọng việc giáo dục nâng cao đạo đức, lối sống đồng thời với việc quản lý xã hội
bằng pháp luật. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi
mặt trái của nền kinh tế thị trường hiện nay đang tác động sâu sắc đến đạo đức của xã hội, sự
tha hóa, biến chất và chủ nghĩa cá nhân trong hàng ngũ cán bộ viên chức nhà nước đang có cơ
hội phát triển, tình trạng tham nhũng trong bộ máy Đảng, nhà nước đang trở nên bức xúc.
Tham nhũng đã được Đảng đánh giá là quốc nạn. Nó lại gắn liền với quan liêu, cửa quyền,
hách dịch, lãng phí ... Từ đó cũng cho thấy vấn đề xây dựng đạo đức càng trở thành vấn đề
hàng đâu của công cuộc xây dựng bộ máy nhà nước.
Chúng ta thấy rằng giữa pháp luật và đạo đức có mối quan hệ qua lại,chặt chẽ, thống nhắt và
tương tác lẫn nhau. Các nguyên tắc đạo đức được ghi nhận thành pháp luật. Đồng thời, các giá trị
của đạo đức như: công bằng, thiện ác, tự do nhân đạo... đều không đối lập với pháp luật. Đạo đức
là cơ sở để xây dựng pháp luật, ngược lại pháp luật bảo vệ và củng cố các giá trị đạo đức.
Các quy phạm pháp luật và quy phạm đạo đức đều tác động lên hành vi của con người
hướng theo một trật tự nhất định xã hội. Trong trật tự đó, lợi ích của cá nhân phù hợp với lợi
ích của xã hội. Nói cách khác, giáo dục pháo luật và giáo dục đạo đức đều có mục đích chung,
đó là điều chỉnh hành vi xử sự của con người theo yêu cầu của pháp luật.
Từ mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức như đã trình bày ở trên có thể nói rằng giữa
giáo dục pháp luật và đạo đức có sự đan xen và do đó nếu giáo dục đạo đức tốt thì sẽ tạo tiền
đề cho giáo dục pháp luật tốt. Giáo dục pháp luật tốt sẽ củng cố lòng tin của con người đối với
giá trị xã hội của pháp luật, khi có lòng tin, con người sẽ tự giác tuân theo pháp luật.
Nhận thức rõ mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất giữa hai loại giáo dục này có ý nghĩa thực
tiển rất quan trọng, những người làm công tác giáo dục pháp luật cần phải tìm kiếm các biện
pháp cách thức thích hợp sao cho kết hợp được giữa giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức
để chúng tác động và bổ sung lẫn nhau, nhằm tạo cho con người thói quen xử sự phù hợp với
pháp luật và với đạo đức. Các tổ chức của Đảng, các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể quần
chúng phải quan tâm giáo dục pháp luật và đạo đức cho nhân dân, xây dựng nếp sống theo
pháp luật vừa là yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN, vừa là yêu cầu của đạo đức
XHCN. Trong giai đoạn hiện nay việc nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, nhân dân cần
quan tâm 2 mặt: giáo dục trang bị tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm và thói quen pháp
luật cho nhân dân lao động, đồng thời,chú trọng nâng cao việc giáo dục đạo đức
4
Tuy nhiên cần lưu ý rằng mặc dù hết sức coi trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng không
biến quá trình giáo dục thành một quá trình đạo đức đơn thuần mà đi đôi với với giáo dục,
phải xứ lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm luật pháp của bất cứ ai.
3. Những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đây là đặc trưng cơ bản, được
ghi nhận trong Hiến pháp của nước ta và được thể hiện trong các quy định về nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương của các cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây vừa là nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục thực
hiện việc cải cách bộ máy nhà nước.
Ba là, Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thư ợng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật thể hiện đầy đủ, đúng đắn ý chí của
nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nghĩa vụ tuân theo Hiến
pháp, pháp luật là của tất cả công dân, không loại trừ đối với bất cứ ai.
Bốn là, Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách
nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ
cương, kỷ luật. Mục tiêu cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh về
bảo đảm quyền con người, quyền công dân được thể chế hoá thành luật và được Nhà nước ta
tổ chức thực hiện có kết quả.
Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và thực hiện đầy đủ các
điều ư ớc quốc tế mà Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là đặc trưng cơ bản để phân biệt nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản chủ nghĩa.
Kết luận :
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, . quản
lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức có vai trò hết sức
quan trọng và cấp thiết nhằm xây dựng một nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và
vì dân - một trong những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn công
nghiệp hóa - hiện đại hóa. Hiểu rõ và làm tốt những biện pháp tăng cường pháp chế, coi
trọng giáo dục và nâng cao đạo đức xã hội mà Đảng và nhà nước đã xác định chính là yếu tố
quyết định sự thành công của sự nghiệp xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.
5
Phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà
nước XHCN do dân, vì dân ở nước ta hiện nay. Liên hệ thực tiễn ở ngành, địa phương
công tác (Tham khảo).
NỘI DUNG
Cán bộ công chức là những người làm việc cho cơ quan Nhà Nước, các tổ chức chính
trị- xã hội được hưởng lương từ ngân sách Nhà Nước, là những người đưa chính sách của
Đảng, Nhà Nước vào cuộc sống và tổ chức thực hiện đường lối chính sách thành hiện thực.
Cán bộ là gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay
kém, vì thế cán bộ công chức có vai trò quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng, sự
nghiệp đổi mới. Cán bộ công chức có năng lực, phẩm chất tốt, giúp nâng cao uy tín, năng lực
của Đảng, củng cố lòng tin của nhân dân.
* Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức:
Có đội ngũ cán bộ, công chức đông đảo từ nhân viên đến cán bộ lãnh đạo kinh tế, chính
trị- xã hội chủ chốt, các chuyên gia, chuyên viên đã được đào tạo ở các trường đại học trong
và ngoài nước. Đội ngũ cán bộ, công chức đươc xây dựng, tổ chức, bố trí ở tất cả các ngành,
các lĩnh vực quan trọng, ở tất cả câc cấp, các khâu quản lý.
Xây dựng Nhà Nước pháp quyền là một trong những mục tiêu quan trọng trong công
cuộc đổi mới. Đa số cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, tận tụy, mẫn cán trong
công việc, ra sức học tập để nâng cao trình độ, nghiệp vụ đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm và sự trưởng thành trên, đội ngũ cán bộ, công chức
cũng đã bộc lộ những hạn chế và khuyết điểm.
Chuyển sang thời kì đổi mới, đội ngũ cán bộ, công chức đông nhưng không mạnh, thiếu
đồng bộ. Một bộ phận cán bộ, công chức chưa thích nghi, chưa làm chủ được quá trình quản
lý theo yêu cầu hoạt động của nền kinh tế thị trường, yêu cầu xây dựng Nhà Nước pháp quyền
XHCN do dân, vì dân ở nước ta hiện nay.
Công tác quản lý cán bộ, công chức còn yếu ở các cấp, chưa đảm bảo đồng bộ ở các
khâu: xây dựng tiêu chuẩn và cơ cấu, lựa chọn, tuyển dụng, đào tạo lại, đề bạt, sử dụng, đánh
giá, quản lý cán bộ ở từng ngành, từng cấp. Phương thức đánh giá còn khác nhau, còn có cách
nhìn nhận khác nhau, chưa dựa trên những tiêu chuẩn tổng hợp, toàn diện và điều kiện cụ thể.
Một bộ phận cán bộ, công chức sa sút về phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống, mất
niềm tin vào CNXH, chạy theo lối sống cơ hội, thực dụng, làm giàu bất chính, lợi dụng chức
quyền và sơ hở trong cơ chế chính sách để tham nhũng.
Từ thực trạng nêu trên, vấn đề đặt ra ở nước ta hiên nay là phải xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà Nước pháp quyền XHCN do dân, vì dân có đủ
khả năng để thích nghi, làm chủ và vận hành quản lý nhà nước trong điều kiện nước ta trong
thời kì đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
6
* Phương Hướng:
Phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức với mục tiêu là: xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức trước hết là lãnh đạo và quản lý ở các cấp vững vàng về chính trị, gương
mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn,
gắn bó với nhân dân, chấp hành pháp luật và chính sách của Nhà Nước. Và các nội dung cụ
thể như sau:
Thứ nhất, xây dựng và thực hiện tốt chiến lược quy hoạch cán bộ công chức. Quy hoạch
cán bộ, công chức là việc lập dự án thiết kế xây dựng tổng thể đội ngũ cán bộ, công chức theo
một ý đồ rõ rệt với một trình tự hợp lý trong một thời gian nhất định, làm cơ sở cho việc lập
kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Quy hoạch cán bộ, công chức có quan hệ mật
thiết với chiến lược cán bộ, công chức và kế hoạch cán bộ, công chức. Xây dựng quy hoạch
cán bộ, công chức cần tập trung vào các nội dung sau đây:
- Lập dự án xây dựng tổng thể đội ngũ cán bộ, công chức với mục tiêu của quy hoạch, cơ
cấu cán bộ, công chức trong quy hoạch cán bộ, công chức, thuộc diện quy hoạch, xác định
nguồn cán bộ, công chức trong quy hoạch.
- Dự kiến bố trí, sắp xếp tổng thể đội ngũ cán bộ, công chức theo ý đồ rõ rệt, với trình tự
hợp lý trong thời gian nhất định; Cần chú trọng Xác định rõ phạm vi và đối tượng quy hoạch,
quy hoạch tổng thể trong quy hoạch từng loại cán bộ, công chức. Các chức danh trong quy
hoạch phải được xác định rõ ràng. Gắn quy hoạch với các khâu trong công tác cán bộ như xác
định tiêu chuẩn, đánh giá, tuyển chọn, sủ dụng, quản lý và chính sách đãi ngộ cán bộ công
chức. Quy hoạch cán bộ, công chức phaie xuất phát từ nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ tổ chức,
đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ công chức hiện có, dự kiến nhu cầu và khả năng phát triển
của đội ngũ cán bộ, công chức để chủ động, có phương hướng đào tạo bồi dưỡng. Đặc biệt
chú trọng tạo được nguồn cán bộ dồi dào, đủ tiêu chuẩn để kịp thời đáp ứng yêu cầu, tập trung
vào cán bộ Đảng Nhà Nước, đoàn thể nhân dân các cấp, hệ thống chính trị hành chính các cấp.
Thứ hai là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Công tác quy hoạch phải gắn với đào
tạo và bồi dưỡng cán bộ công chức. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hiện đang
cần tập trung vào các vấn đề: Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng với từng loại cán bộ,
công chức; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức quản lý Nhà Nước từ TW đén cấp cơ sở;
ngoài ra cần mở rộng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cho các tổ chức xã hội. Đổi mới
nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, là phải thiết thực, phù hợp với từng loại cán bộ. Chú
trọng cả phẩm chất đạo đức và kiến thức, cả lý luận và thực tiễn. bồi dưỡng kiến thức cơ bản
và hướng dẫn kỹ nằng thực hành. Lấy tiêu chuẩn cán bộ làm căn cứ xây dựng chương trình
đào tạo, bồi dưỡng thống nhất trong hệ thống các trường đào tạo và bồi dưỡng cán bộ về mọi
mặt và trên mọi lĩnh vực.
Đổi mới phương thức đào tạo bồi, dưỡng, cần đa dạng, phong phú, kết hợp đào tạo
chính qui với các hình thức khác phù hợp với từng loại cán bộ. Tăng cường và nâng cao chất
lượng các lớp bồi dưỡng ngắn hạn theo chuyên đề. Mở rộng đào tạo trong nước, chú trọng đào
7
tạo ở nước ngoài. Có chính sách cử cán bộ giỏi đi nghiên cứu học tập ở các nước phát triển.
Kết hợp đào tạo tại trường lớp với việc rèn luyện qua thực tiễn công tác trong lao động sản
xuất, trong phong trào quần chúng.
Sắp xếp hợp lý hệ thống các nhà trường, học viện theo hướng tập trung, thống nhất có
chỉ đạo chặt chẽ nâng cao chất lượng giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng theo hướng toàn diện. Đổi
mới nội dung chương trình, nâng cao chất lượng đào tạo, đổi mới phương pháp dạy và học. Có
chế độ khuyến khích và bắt buộc cán bộ, công chức tự học, tự nghiên cứu. Định kỳ kiểm tra
kiến thức và trình độ nghiệp vụ. Tăng cường cơ sỏ vật chất, phương tiện kỹ thuật, kinh phí
đào tạo bồi dưỡng, cải tiến việc biên soạn giáo trình đào tạo. Đào tạo, bồi dưỡng toàn diện,
đào tạo theo quy hoạch tăng cường các lớp tập trung, các lớp đào tạo nguồn, đào tạo cán bộ
nữ, cán bộ dân tộc, cán bộ trẻ, cán bộ xuất thân từ công nhân.
Đổi mới cơ chế đánh giá, tuyển dụng: Thực hiện chế độ dân chủ công khai trong việc
tuyển chọn cán bộ, công chức bảo đảm chọn đúng những người có đủ tiêu chuẩn theo từng
chức danh cán bộ. Xây dựng và thực hiện qui trình tuyển chọn kết quả sát hạch, thi tuyển là
một căn cứ chủ yếu để ra quyết định tuyển dụng. Tùy theo loại cán bộ cần tuyển mà lập hội
đồng thi tuyển quốc gia, hội dồng thi tuyển ngành hoặc địa phương.
Về bầu cử: việc bầu cử phải được thực hiện đúng pháp luật của Nhà nước và điều lệ
Đảng, Đoàn thể. Các cán bộ do tổ chức Đảng giới thiệu tham gia vào các cơ quan Nhà nước,
Mặt trận tổ quốc, đoàn thể nhân dân phải được cấp Ủy thảo luận và nhất trí giới thiệu đúng thể
lệ, qui tắc, qui trình bầu cử. Người được bầu vào các chức vụ cấp trưởng phải đề xuất được đề
án, chương trình công tác trong nhiệm kỳ, cam kết hoàn thành nhiệm vụ, giữ gìn phẩm chất
đạo đức. Thực hiện bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ phải thực hiện đúng pháp luật của Nhà
nước.
Đổi mới chế độ chính sách đối với cán bộ: cụ thể là đầu tư thích đáng cho việc đào tạo,
bồi dưỡng những người ưu tú trở thành cán bộ chủ chốt. Có chính sách học bổng và miễn
giảm học phí cho con em các gia đình có công với cách mạng, gia đình liệt sĩ, sinh viên các
ngành sư phạm. Bồi dưỡng tài năng ngay từ các trường phổ thông, đại học và trung học
chuyên nghiệp. Dành kinh phí để cử cán bộ ưu tú và sinh viên xuất sắc đi đào tạo, tham quan,
bồi dưỡng ở nước ngoài, đặc biệt là các nước phát triển. Có chính sách đảm bảo vật chất và
động viên tinh thần. Tiền lương phải thật sự trở thành bộ phận cơ bản trong thu nhập của cán
bộ công chức, đảm bảo tái sản xuất mở rộng sức lao động, thực hiện tiếp tục tiền tệ hóa tiền,
lương tôn vinh những người có xông với nước. biểu dương khen thưởng kịp thời những người
có thành tích trong lao động, sản xuất và các lĩnh vực khác. Nghiên cứu, đổi mới chính sách
tặng thưởng huân chương.
Đi đôi với khuyến khích lợi ích vật chất, chú trọng giáo dục lý tưởng cách mạng cho
cán bộ. Mục tiêu lý tưởng cách mạng là động lực lớn nhất để thúc đẩy sự phấn đấu vươn lên
của từng cán bộ. Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ công chức. Tổ chức
Đảng và các cấp Ủy Đảng có trách nhiệm xây dựng chế độ kiểm tra cán bộ, công chức, và
8
công tác cán bộ. Kịp thời nêu gương cán bộ tốt, giúp đỡ cán bộ khó khăn, ngăn chặn kịp thời
những biểu hiện lệch lạc, cơ hội, thoái thác, biến chất. Kịp thời kiểm tra, kết luận các vụ việc
liên quan đến cán bộ để đánh giá chính xác cán bộ. Xây dựng cơ chế để nhân dân phát hiện
tiến cử những người có tài, có đức cho các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà Nước và Đoàn thể ,
lựa chọn bầu cử những người lãnh đạo trực tiếp của mình. Nhân dân giám sát các công việc và
phẩm chất của cán bộ, trước hết là những cán bộ liên quan trực tiếp đến mình, tuyên dương
cán bộ tốt, đấu tranh phát hiện các biểu hiện tiêu cực quan liêu, tham nhũng…Đảm bảo quyền
khiếu nại của nhân dân đối với cán bộ theo pháp luật. Có chế độ định kỳ cán bộ, công chức tự
phê bình tiếp thu ý kiến của dân, sửa chữa những khuyết điểm mà dân nêu ra.
Liên hệ thực tiễn ; ngành, địa phương.
9
Bạn đang xem tài liệu "Đề cương ôn tập môn Triết học - Câu 7 (Có đáp án)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- de_cuong_on_tap_mon_triet_hoc_cau_7_co_dap_an.doc