Báo cáo Quản lí dự án cho kĩ sư - Cách áp dụng tư duy hệ thống trong quản lý dự án

BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC TRONG NHÓM  
Hoàn thành  
công việc  
Thành viên  
Công việc  
1. Đọc toàn bộ bài viết, nắm ý của từng phần,  
phân công công việc cho các thành viên.  
Cao Việt Cường 2. Dịch thuyết trình phần Fixes that fail”.  
(Nhóm trưởng) 3. Chuẩn bị nội dung cho phần thuyết trình cá  
nhân.  
100%  
4. Chỉnh sửa nội dung cho bản word.  
1. Đọc nắm ý toàn bộ bài thuyết trình của  
nhóm.  
2. Đưa ra ý tưởng, thiết kế power point của toàn  
bộ bài thuyết trình.  
3. Biên tập file word thành bài báo cáo hoàn  
Trần Vân Anh  
100%  
chỉnh.  
4. Thuyết trình 2 phần “limits to growth” và  
“shifting the burden”  
1. Đọc nắm ý toàn bộ bài thuyết trình của  
nhóm.  
Trần Hoàng  
Anh Khoa  
2. Dịch thuyết trình 2 phần Levels of  
understanding” và “The tragedy of commons”.  
3. Chuẩn bị nội dung cho phần thuyết trình cá  
nhân.  
1. Đọc nắm toàn bộ bài thuyết trình của nhóm.  
2. Dịch 2 phần Limits to growth” và “Shifting the  
burden”.  
100%  
100%  
Nhật Tảo  
MỤC LỤC  
CÁCH ÁP DỤNG TƯ DUY HỆ THỐNG  
TRONG QUẢN DỰ ÁN  
Trong những phần trước đã đề cập đến vấn đề tư tưởng hệ thống thể giúp ta hiểu được  
những động lực trong các mối quan hệ giữa người với người. Nói chung, các công việc  
dự án được con người đảm nhiệm nên ta cần phải áp dụng những khái niệm về tư tưởng  
hệ thống để thể hiểu quản được các dự án.  
Fixes that fail – Sửa lỗi sai  
Hãy bắt đầu bằng một vấn đề thường gặp nhất trong dự án: công việc bị chậm tiến độ so  
với kế hoạch. Dẫn đến việc yêu cầu nhân viên phải tăng ca thêm vài giờ làm mỗi ngày để  
cho kịp tiến độ. Nếu chỉ trong 1 tuần, thể nhân viên sẽ đồng ý làm 12 giờ mỗi ngày để  
xúc tiến công việc. Lượng công việc hoàn thành chắc chắn sẽ tốt hơn trước. Tuy nhiên,  
sau một vài tuần, người nhân viên đó sẽ phạm rất nhiều sai lầm (chắc chắn cần được  
sửa lại). Hơn nữa, bạn sẽ thấy rằng năng suất cũng như chất lượng của nhân viên đó  
xuống dốc nhiều so với những bạn thấy trong tuần đầu tiên. Thực chất, nếu bạn để ý sẽ  
thấy lượng công việc mà nhân viên đó dù có dốc hết sức làm cũng chỉ bằng lúc anh ta  
làm việc bình thường (40 giờ/tuần). Nhưng bạn đã vô tình làm mất đi năng suất công việc  
bởi bây giờ phải tốn thêm thời gian sửa lỗi mà anh ta gây ra và điều này đã giảm đi năng  
suất của nhân viên khá nhiều.  
Cần phải làm một điều đó để giải quyết tình trạng này.  
Bạn sẽ quyết định rằng nếu tăng ca không phải đáp án, vậy thử tăng nguồn lực thì vấn  
đề được giải quyết không? Bạn thuyết phục cấp trên huy động thêm một người mới  
đến hỗ trợ. Thật ngạc nhiên rằng lượng công việc hoàn thành do hai người không khác gì  
so với một người. Đáng quan tâm hơn cả nhiều lỗi thể xảy ra hơn nữa. Chuyện đã  
xảy ra ở đây?  
Bạn họp lại với các thành viên ban đầu của nhóm dự án, có ý kiến cho rằng: “Chuyện đó  
rất đơn giản. Người mà anh mới đưa đến hỗ trợ tôi không biết về việc tôi đang làm.  
Tôi phải hướng dẫn anh ta gần như cả ngày thứ hai. Sau đó, tối thấy anh ta làm sai rất  
nhiều lỗi và tôi phải người giúp sửa hết những lỗi đó và tôi vẫn phải làm tăng ca để đào  
tạo để sửa lỗi cho người đó. Tôi không cần bất kỳ sự giúp đỡ nào khác, điều đó sẽ tốt  
hơn!”  
Đây một dụ của Fixes that fail”. Bắt một nhân viên phải làm việc tăng ca sẽ gây ra  
sự mệt mỏi kéo dài cho người đó. Do vậy mà anh ta sẽ mắc nhiều lỗi hơn trong công  
việc. Những lỗi đó cần phải được sửa chữa, như vậy nhân viên này lại phải làm nhiều  
hơn, làm cho anh ta mệt mỏi hơn và gây ra nhiều lỗi hơn. Cứ như vậy một vòng lẩn quẩn  
sẽ tạo thành mà không giải quyết được vấn đề. rồi nếu một người mới được điều  
đến để hỗ trợ dự án. Nhân viên cũ lại phải chỉ dẫn cho người mới, không chỉ làm giảm  
năng suất làm việc mà còn buộc nhân viên cũ phải làm việc nhiều hơn, lỗi lại tiếp tục xảy  
ra và vòng tròn trên được lặp lại.  
Một dụ khác, có một công ty tên là Acme Electronics sản xuất ra các linh kiện rồi sau  
đó chuyển các linh kiện đó cho một công ty khác lắp ráp lại với nhau thành sản phẩm.  
Thỉnh thoảng, khách hàng báo về một số vấn đề liên quan đến một trong những linh  
kiện đó. nếu như công ty có khả năng giải quyết vấn đề này, họ sẽ gửi kỹ sư thiết kế  
đến. Do công việc chủ yếu của những kỹ sư này là thiết kế ra những linh kiện mới nên  
công việc thiết kế của họ bị dừng lại. Họ lập kế hoạch để giải quyết vấn đề cho khách  
hàng rồi mới trở lại công việc.  
Đáng tiếc thời hạn để hoàn thành công việc thiết kế linh kiện không thay đổi họ bị  
trễ tiến độ. Giải pháp duy nhất hiện có là làm việc cật lực để cố gắng hoàn thành công  
việc được giao. Kết quả cũng giống như trường hợp trên, chất lượng công việc bị giảm  
sút, không đạt yêu cầu. Linh kiện mới được tung ra thị trường, lại vấn đề với những  
linh kiện này khách hàng. Công việc thiết kế lại bị trì trệ. Họ làm nhiều hơn để hoàn  
thành công việc lại tạo ra sản phẩm không tốt, cứ như vậy vòng tròn ấy sẽ lặp lại tuần  
hoàn.  
Từ thường được dùng để tả trường hợp này là “fire-fighting(chữa cháy). Theo từ  
điển, fire-fightingđược giải nghĩa là “the practice of dealing with problems as they  
arise rather than planning strategically to avoid them, in business”. Các kỹ sư thường  
làm việc theo kiểu chữa cháy như vậy mà không có một kế hoạch để ngăn chặn những  
hậu quả (fires) trong tương lai.  
Levels of understanding –Các cấp độ nhìn nhận  
Chúng ta có thể nhìn nhận các vấn đề xung quanh bằng nhiều cấp độ khác nhau. Những người  
cótư duy hệ thống thường quan tâm đến bốn trong số những cấp độ được thể hiện trong Hình 14-  
1. Ở cấp độ event(sự kiện), tức giải quyết những việc căn bản diễn ra hằng ngày. Khi rủi ro  
xảy ra, chúng ta vẫn làm việc, giải lao, hoàn thành công việc hay viết bản ghi nhớ. Trong trường  
hợp của kĩ sư, họ sửa chữa lỗi linh kiện, họ lập tức giải quyết vấn đề. Cấp độ này gọi là  
reactive(phản ứng lại), bởi vì chúng ta luôn phản ứng liền với các vấn đề hơn cố kiểm soát  
chúng xảy ra.  
Cấp độ tiếp theo là “pattern of event” (mô hình sự kiện). Trong trường hợp của các kỹ sư,  
chúng ta bắt đầu nhận thấy vấn đề xảy ra theo một mô hình nào đó. Cần chú ý rằng mô  
hình chỉ thể được áp dụng trong một thời gian. Khi mô hình phát triển, chúng ta có lẽ  
phải thích ứng trong tiếp nhận. Chúng ta sẽ đào tạo các kỹ sư trong việc đối mặt với vấn  
đề, do đó họ thể phân biệt giải quyết vấn đề xảy ra nhanh chóng. Điều này vẫn  
không ngăn được vấn đề.  
Hình 14-1. Các cấp độ nhìn nhận  
Với cấp độ systemic structure(cấu trúc hệ thống), chúng ta bắt đầu hỏi nguyên nhân  
xảy ra các mô hình của vấn đề. Cách này gọi là “creative” (sáng tạo), bởi vì chúng ta có  
thể ngăn chặn vấn đề nếu chúng ta có thể hiểu các mô hình. Cách này định hướng cho  
tương lai. Bằng việc phòng ngừa vấn đề, chúng ta tạo ra kết quả khác biệt hơn thông  
thường. Với cách này, chúng ta quyết định lập nhóm giải quyết vấn đề, tách biệt với các  
kỹ sư thiết kế. Điều này giải phóng kỹ sư khỏi việc đối mặt vấn đề, do đó họ thể tập  
trung cho việc thiết kế được tốt, về lâu dài sẽ làm giảm số lượng các vấn đề phát sinh.  
Bậc kế tiếp là “shared vision”(tầm nhìn chung). Cách này tạo ra các cấu trúc hình thành  
mô hình. Mô hình này gọi là “generative(kiến tạo) và nó cũng định hướng cho tương  
lai. Với cách này, chúng ta sẽ hỏi các câu hỏi, như Vai trò thực sự của các kỹ sư thiết kế  
là gì? Vấn đề cần được xử như thế nào? Sự cân bằng giữa nguồn lực dành cho việc  
thiết kế giải quyết vấn đề như thế nào?”  
The tragedy of the commons– Khuyết điểm của những vấn đề chung  
Hệ thống phức hợp rất nhiều điểm manh. Tuy nhiên hệ thống phức hợp cũng những  
vấn đề của riêng nó.  
Một trong những vấn đề đó những nhược điểm của những vấn đề chung. Trong thời  
trung cổ Anh, có những nơi công cộng hay khu vực đồng cỏ chung. Ý tưởng này được  
đưa tới Mỹ bởi các nhà thám hiểm. Tất cả các thành viên trong một cộng đồng được chăn  
thả gia súc trong khu vực chung.  
Một chủ sở hữu vật nuôi sớm suy nghĩ rằng, Càng nhiều bò càng tốt, khi được chăn thả  
miễn phí, tôi sẽ gia tăng đàn bò nhanh nhất thể”. Điều này tạo ra một vòng phản hồi  
gia tăng.  
Điều này tạo ra tình huống mỗi cá nhân quá mềm yếu để thể tránh được vấn đề đó.  
Mọi người đều cùng suy nghĩ như vậy và có cách thực hiện giống nhau, vì vậy đàn gia  
súc ngày càng tăng nhanh. Chẳng mấy chốc số lượng gia súc tăng nhanh hơn lượng cỏ  
mọc lên. Gia súc thiếu thức ăn phải gặm sâu tận rễ, khiến cho cỏ không thể tiếp tục  
sinh trưởng được nữa, cuối cùng chúng không còn gì ăn. Những con bò ngày càng đói và  
toàn bộ dân làng phải đối mặt với thảm họa.  
Chúng ta nhận thấy rằng việc đơn lẻ một người dân tự nguyện giảm quy mô đàn gia súc  
của mình là bất lợi cho chính bản thân họ. Điều đó mang lại nhiều cỏ hơn, đồng nghĩa với  
việc những người khác sẽ động lực nhiều hơn để phát triển đàn gia súc của họ. Như  
vậy, hành động người khác này sẽ không ngăn chặn được các thảm họa người có  
nghĩa cử cao đẹp ấy lại nghèo đi trong khi người láng giềng của anh ta ngày càng giàu có.  
Điều đáng nói trong trường hợp này là nếu mỗi người tự đưa ra quyết định mà cho đó là  
tốt nhất theo quan điểm của riêng mình thì mọi người vẫn sẽ gặp kết cục không tốt.  
Peter Block đã chỉ ra rằng lợi ích cá nhân thật sự nghĩa nếu mỗi người dân sẽ làm  
những điều tốt nhất cho cả làng – chứ không phải là cho cá nhân (Block, 1987). Khi làm  
được như vậy, dân làng sẽ được lợi về lâu dài. Tất nhiên, con người rất khó làm được  
việc này. Con người có xu hướng ích kỷ, không bao giờ nhận ra rằng hành động của họ  
cuối cùng có thể phá hủy mọi thứ. Chúng ta thấy điều khá đúng với vấn đề môi trường  
ngày nay.  
Nhưng điều này có liên quan gì đến quản dự án?  
Một trong những khía cạnh quan trọng của quản dự án là người quản lí luôn luôn cạnh  
tranh các nguồn tài nguyên khan hiếm để hoàn thành công việc. Nếu chúng ta nhận ra  
rằng lợi ích thực sự của chúng ta nằm ở hợp tác hơn cạnh trạnh, các đội dự án của  
chúng ta sẽ hoạt động tốt hơn. Thay vào đó, chúng ta đôi khi sa lầy vào việc thắng - thua  
trong tranh chấp nguồn tài nguyên. Mỗi nhà quản dự án muốn tối ưu hóa “nhómcủa  
họ mà không gây ảnh hưởng tới các nhóm khác. Từ quan điểm hệ thống, bất cứ chuyện gì  
mà chúng ta làm để giúp tổ chức trong một phạm vi có xu hướng sẽ giúp đỡ cho toàn bộ  
hệ thống ngược lại, chúng ta làm tổn hại bất cứ thứ gì thì cũng tổn hại đến tất cả mọi  
người.  
Như đã đề cập trong chương 12, đôi khi chúng ta bị vướng vào trò chơi không có điểm  
dừng bởi vì chúng ta tạo ra một sự tương tác lặp đi lặp lại. Lúc này xuất hiện vòng phản  
hồi phủ định, hệ thống có xu hướng tự cân bằng chống lại sự thay đổi. Ở đoạn cuối  
chương 13, hệ thống có xu hướng quay lại điểm cân bằng nếu bị xáo trộn, do đó, nếu bạn  
cố gắng làm giảm xung đột, trở lại điểm cân bằng sớm hơn một chút. Trừ khi bạn làm  
gián đoạn các mô hình bằng cách làm nhiễu các vòng phản hồi phủ định thì sự tương tác  
sẽ tiếp tục, không suy giảm, mãi mãi (hoặc đến khi cả hai bên đều trở nên mệt mỏi về  
nó).  
Limits to growthGiới hạn của sự phát triển  
Trong cuốn The Fifth Discipline (1990), Peter Block giới thiệu một số hệ thống mô hình  
kiểu mẫu xuất hiện nhiều trong tổ chức, nhóm và cả trong cá nhân. Một trong số đó là  
limits-to-growth. Mô hình kiểu mẫu này gần như lúc nào cũng được tìm thấy trong  
trường hợp phát triển vượt mức giới hạn” (Senge, 1990, trang 96). Các tổ chức phát  
triển trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó sẽ dừng lại. Điều này cũng tương tự  
với các nhóm và cá nhân. Các cố gắng phát triển tổ chức thông qua cải tổ thể đạt được  
những thành công nhất định, sau đó sẽ tới ngưỡng giới hạn.  
Điều này có thể áp dụng cho nhóm dự án. Trong chương 27 sẽ đề cập thêm về quá trình  
phát triển trong các nhóm dự án. Tuy nhiên, có thể thấy rằng sự phát triển chỉ thể phát  
triển đến một mức độ giới hạn nào đó. Chúng ta cố gắng giải quyết vấn đề deadline(hạn  
chót) bằng cách làm việc nhiều giờ hơn, nhưng như tôi đã cho thấy ở đầu chương này,  
stress và mệt mỏi bắt đầu làm chậm tiến độ công việc giảm chất lượng, do đó làm  
giảm lợi ích của làm thêm giờ.  
Hình 14-2. Cấu trúc hệ thống Limits-to-growth  
Shifting the burden – Sự thoái thác gánh nặng  
hình kiểu mẫu này phổ biến trong chính phủ và các tổ chức hợp tác. Có một vấn đề  
làm phát sinh những vấn đề khác cần phải chú ý, nhưng những vấn đề cơ bản này lại quá  
khó để tập trung vào giải quyết do chúng không thực sự rõ ràng hoặc là quá tốn kém để  
xử . Nên mọi người thoái thác gánh nặng theo cách này hay cách khác. Nó là sự giải  
quyết” có vẻ hiệu quả. Tuy nhiên, việc thoái thác này chỉ giải quyết những vấn để nổi”,  
còn vấn đề ngầm” thì vẫn tồn tại.  
thể lấy dụ như sau,với một cá nhân, khi người đó làm quá sức, thể vì phòng ban  
thiếu nhân lực. Người đó cố gắng đảm đương công việc, gia đình, học vấn, và lúc nào  
cũng phải chạy đua với công việc. Khi khối lượng công việc vượt quá năng lực cá nhân,  
hướng giải quyết duy nhất chính là tạo ra “ngưỡng” công việc cho mình bằng cách hoặc  
hòa hoãn công việc hoặc chọn lựa công việc nào cần ưu tiên làm trước. Khi người đó  
muốn ôm đồm nhiều việc để hoàn thành nhanh hơn cố gắng để giải tỏa stress bằng  
rượu để quên đi lo âu, nhưng cả hai đều không phải giải pháp thiết thực. Vấn đề cứ tiếp  
diễn, người đó càng ngày càng uống nhiều rượu hơn nữa.  
Vấn đề này còn có thể xảy ra trong quá trình làm việc nhóm. Thay vì giải quyết trực tiếp  
từng người, người quản cố gắng phát triển kĩ năng giao tiếp của nhân viên. Có lẽ bộ  
phận Nhân sự cần can thiệp. Họ nói chuyện, hướng dẫn, khuyên giải và có thể khuyến  
khích người đó. Tuy nhiên, nếu anh ta vẫn tiếp tục giữ nguyên thái độ cư xử, tốt nhất nên  
loại anh ta khỏi nhóm (hay sa thải khỏi công ty), nhưng không ai muốn nhận lấy hình  
phạt nặngnhư vậy.  
Hình 14-3. Cấu trúc hệ thống Shifting the burden  
Những dụ nêu trên cho thấy tư duy hệ thống đem lại sự hữu ích trong công tác quản lý  
dự án. Để hiểu chi tiết hơn về những giải pháp trong hệ thống tổ chức bạn thể tìm hiểu  
thêm trong một số tài liệu tham khảo khác như The Fifth Discipline Fieldbook (Senge và  
cộng sự, 1994), hay The Systems Thinker Newsletter.  
docx 8 trang Thùy Anh 28/04/2022 6980
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo Quản lí dự án cho kĩ sư - Cách áp dụng tư duy hệ thống trong quản lý dự án", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docxbao_cao_quan_li_du_an_cho_ki_su_cach_ap_dung_tu_duy_he_thong.docx