Tín ngưỡng và tôn giáo của người Việt vùng Tây Nam Bộ qua truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 10 - 2020
TÍN NGƯỠNG VÀ TÔN GIÁO CỦA NGƯỜI VIỆT VÙNG TÂY NAM
BỘ QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ
Nguyễn Thúy Diễm*
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tây Đô
(Email: nguyenthuydiem8@gmail.com)
Ngày nhận: 15/9/2020
Ngày phản biện: 20/10/2020
Ngày duyệt đăng: 29/11/2020
TÓM TẮT
Tín ngưỡng và tôn giáo là hai trong số các loại hình văn hóa đa dạng, nổi bật của tộc người Việt
vùng Tây Nam Bộ. Có thể nói, đây là những giá trị tinh thần của con người vùng đất này, có ảnh
hưởng, tác động rất lớn đến đời sống tâm linh và sinh hoạt văn hóa của cư dân vùng Tây Nam
Bộ, tiêu biểu là tộc người Việt. Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê mô
tả và phân tích – tổng hợp để tìm hiểu những biểu hiện tín ngưỡng và tôn giáo của người Việt
vùng Tây Nam Bộ qua truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, góp phần phác họa đời sống tinh thần
của cư dân Việt trong quá trình sinh tồn trên vùng đất mới. Những đặc trưng này được tác giả
khắc họa khá rõ nét trong bảy tập truyện ngắn tiêu biểu được viết từ năm 2001 đến năm 2016,
góp phần thể hiện sự chiêm nghiệm và thấu hiểu của tác giả với văn hóa tinh thần của con người
vùng sông nước miền Tây.
Từ khóa: Nguyễn Ngọc Tư, truyện ngắn, tín ngưỡng, tôn giáo, vùng Tây Nam Bộ
Trích dẫn: Nguyễn Thúy Diễm, 2020. Tín ngưỡng và tôn giáo của người Việt vùng Tây Nam
bộ qua truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát
triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô. 10: 194-203.
*Ths. Nguyễn Thúy Diễm – Giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tây Đô
194
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 10 - 2020
ngưỡng và tôn giáo. Đó chính là một
trong những thành công của tác giả thể
hiện qua tập truyện: Ngọn đèn không tắt,
Giao thừa, Cánh đồng bất tận, Gió lẻ và
9 câu chuyện khác, Khói trời lộng lẫy,
Đảo, Không ai qua sông.
1. GIỚI THIỆU
Vùng Tây Nam Bộ nói riêng, vùng Nam
Bộ nói chung “là nơi có tỷ lệ dân cư theo
các tín ngưỡng, tôn giáo đông, có nhiều
loại hình tín ngưỡng, tôn giáo vào bậc
nhất của Việt Nam… và vai trò của tôn
giáo trong đời sống cư dân là rất lớn”
(Ngô Văn Lệ và ctv, 2017). Người Việt
sinh sống nơi đây có nguồn gốc là những
người di dân từ miền Bắc, miền Trung
tiến vào Nam từ chính sách khẩn hoang
của các chúa Nguyễn thế kỉ XVII, hầu hết
là người Thuận Quảng, mang theo vào
vùng đất mới những tín ngưỡng, tôn giáo
vốn có và chịu ảnh hưởng bởi những tín
ngưỡng, tôn giáo nội sinh nơi đây. Vì thế,
thành tố văn hóa tinh thần này của người
Việt rất phong phú và đa dạng, ảnh hưởng
đến những sáng tác văn học của địa
phương. Viết về đất và người châu thổ
sông Cửu Long với những nét văn hóa
tinh thần độc đáo, một trong những cái
tên của văn học Tây Nam Bộ hiện đại khá
thành công trong việc đưa đặc trưng tín
ngưỡng, tôn giáo cả người Việt vào
truyện ngắn của mình có thể kể đến là
Nguyễn Ngọc Tư.
2. NỘI DUNG
2.1. Khái quát về tín ngưỡng, tôn
giáo
Con người tuy là giống loài thông
minh bậc nhất của địa cầu nhưng so với
vũ trụ bao la này, họ chỉ là những sinh vật
vô cùng nhỏ bé. Kiến thức của con người
dù cao siêu đến cách mấy vẫn chưa thể lý
giải được những bí ẩn của vũ trụ một cách
tuyệt đối. Đó chính là một trong những lý
do quan trọng để tín ngưỡng, tôn giáo ra
đời và tồn tại. Tín ngưỡng và tôn giáo
không chỉ là điểm tựa tinh thần cho con
người giữa cuộc sống; mà hơn thế nữa,
chúng còn là một phần quan trọng trong
kho tàng văn hóa của từng đất nước, từng
dân tộc và của toàn nhân loại.
Trong Từ điển Tín ngưỡng tôn giáo,
Mai Thanh Hải đưa ra quan niệm: “tín
ngưỡng là lòng tin và sự ngưỡng mộ,
ngưỡng vọng vào một lực lượng siêu
nhiên, thần bí; lực lượng siêu nhiên đó có
thể mang hình thức biểu tượng “trời”,
“phật”, “thần thánh” hay một sức mạnh
hư ảo, huyền bí, vô hình nào đó tác động
đến đời sống tâm linh của con người,
được con người tin đó là có thật và tôn
thờ” (Mai Thanh Hải, 2006) còn trong Từ
điển tiếng Việt,“tín ngưỡng là lòng tin
theo một tôn giáo nào đó” (Hoàng Phê và
các cộng sự, 2009). Theo Nguyễn Bá
Dương, “tín ngưỡng là lòng tin và sự
Đánh dấu thành công đầu tiên với tập
truyện ngắn Ngọn đèn không tắt – giải
nhất cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi
20 lần II năm 2000, đến nay Nguyễn
Ngọc Tư là một trong số ít nhà văn trẻ
được độc giả mến mộ với văn phong bình
dị, dân dã. Bên cạnh những biểu hiện đặc
sắc của văn hóa vật chất (ẩm thực, nhà ở,
trang phục, phương tiện di chuyển) thì
Nguyễn Ngọc Tư cũng phản ánh những
giá trị văn hóa tinh thần qua các truyện
ngắn của mình, trong đó đáng kể là tín
195
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 10 - 2020
ngưỡng mộ, ngưỡng vọng vào một lực vào trong đầu óc con người” (Nguyễn Bá
lượng siêu nhiên, thần bí” (Nguyễn Bá Dương, 2017).
Dương, 2017).
Từ những định nghĩa trên, có thể thấy
Bàn về khái niệm tôn giáo, Đặng rằng, tín ngưỡng và tôn giáo đều xuất
Nghiêm Vạn cho rằng, tôn giáo được hiểu phát từ niềm tin vào lực lượng siêu nhiêu,
là “niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, tuy nhiên đôi chỗ chưa được phân biệt
vô hinh, mang tính thiêng liêng, được một cách rõ ràng, tách biệt giữa các cách
chấp nhận một cách trực giác và tác động hiểu. Mục đích chủ yếu của bài viết là
qua lại một cách siêu thực (hay hư ảo) với khảo sát và phân tích những biểu hiện của
con người, nhằm lí giải những vấn đề trên chúng qua truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm Tư nhằm minh chứng cho đời sống tinh
tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tùy thần phong phú của người Việt vùng Tây
thuộc vào nội dung từng thời kỳ lịch sử, Nam Bộ.
hoàn cảnh địa lí – văn hóa khác nhau,
2.2. Biểu hiện tín ngưỡng, tôn giáo
phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo,
của người Việt vùng Tây Nam Bộ qua
được vận hành bằng những nghi lễ,
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
những hành vi tôn giáo khác nhau của
Tín ngưỡng và tôn giáo là những thành
tố văn hóa lâu đời, có tầm ảnh hưởng lớn
lao và rất được xem trọng của dân tộc
Việt Nam. Tổ tiên người Việt ở Nam Bộ
nói chung, Tây Nam Bộ nói riêng đã tiếp
tục phát huy truyền thống và tạo ra những
dấu ấn riêng biệt cho văn hóa tín ngưỡng
và tôn giáo ở vùng đất mới. Những nét
văn hóa đặc sắc ấy phần nào được thể
hiện qua truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
Tư.
từng cộng đồng xã hội / tôn giáo khác
nhau” (Đặng Nghiêm Vạn, 2005). Từ
điển tiếng Việt định nghĩa: “tôn giáo là
hình thái ý thức xã hội gồm những quan
niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những
lực lượng siêu tự nhiên, cho rằng có
những lực lượng siêu tự nhiên quyết định
số phận con người, con người phải phục
tùng và tôn thờ” (Hoàng Phê và các cộng
sự, 2009). Trong khi đó, trong mối tương
quan với tín ngưỡng, Nguyễn Bá Dương
quan niệm:“tôn giáo là một hiện tượng xã
hội mang tính lịch sử, bao gồm ý thức tôn
giáo, hoạt động tôn giáo và tổ chức tôn
giáo mà sự tồn tại, phát triển của nó là do
sự phản ánh hư ảo hiện thực khách quan
Qua khảo sát của chúng tôi trên ngữ
liệu 07 tập truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
Tư từ năm 2001 đến năm 2016, những
biểu hiện tín ngưỡng, tôn giáo của người
Việt vùng Tây Nam Bộ được thống kê
trong bảng sau:
196
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 10 - 2020
Tỉ lệ
STT
1
Tín ngưỡng, tôn giáo qua truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư
Số lượt
xuất hiện
18
Tín
thờ cúng tổ tiên
thờ Trời Đất
thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh
thờ Tổ nghề
10,4%
3,7%
5,8%
2,3%
2,3%
75,5%
100%
ngưỡng
06
10
04
04
2
Tôn giáo
Công giáo
Phật giáo
131
Tổng
173
gia cảnh mà người ta có thể xây cất một
căn nhà riêng hay chỉ đơn giản là dùng
một gian nhà để thờ cúng. Theo Trần
Ngọc Thêm, nơi thờ cúng ông bà của
người dân Tây Nam Bộ ngày xưa là
giường thờ – giường cha mẹ nằm lúc còn
sống – hoặc bàn thờ: “Sớm sớm, ngồi xắt
chuối quết nát trộn với cám cho bầy vịt
xiêm ăn. Xẩm tối, má đốt nhang lên bàn
thờ ông bà ngoại, đóng cửa, sập rèm”
(Người năm cũ) (Nguyễn Ngọc Tư,
2006). Mãi đến thế kỉ XX, người dân nơi
đây mới dần thay thế thành tủ thờ dựa
theo loại tủ của Pháp, vừa gọn gàng, vừa
tiện dụng (Trần Ngọc Thêm, 2014).
Truyện ngắn Một mối tình của Nguyễn
Ngọc Tư có mô tả: “Trọng không nghèo,
nhưng cũng chưa đủ giàu để sửa lại ngôi
nhà đã bệu rệu. Mối mọt, bù xè thi nhau
tấn công vào những cây cột gỗ, bộ ngựa
chân quỳ, mấy cái tủ thờ, trường kỷ”
(Nguyễn Ngọc Tư, 2006). Ngoài ra, một
số gia đình còn sử dụng trang thờ (vật
dụng thờ cúng có mặt nền hình vuông,
xung quanh có thanh dạng lan can, có một
mặt đứng gắn với mặt nền, có hình dáng
như một mái nhà, trong lòng mặt đứng có
viết chữ để thờ (Huỳnh Công Tín, 2009))
thay cho tủ hoặc giường thờ, đặc biệt là
2.2.1. Biểu hiện tín ngưỡng của
người Việt vùng Tây Nam Bộ qua truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
Theo khảo sát của người viết trên 7 tập
truyện ngắn của tác giả, các tín ngưỡng
phổ biến qua truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư có thể kể đến là thờ cúng tổ tiên,
thờ Trời Đất, thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh
và thờ Tổ nghề, xuất hiện 38 lần (chiếm
22,2%), trong đó tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên được tác giả đề cập nhiều nhất (18
lượt xuất hiện, chiếm 10,4%).
Thờ cúng ông bà tổ tiên là một trong
những tín ngưỡng rất phổ biến ở Tây
Nam Bộ. Kế thừa truyền thống hiếu nghĩa
của dân tộc, người miền Tây vẫn duy trì
tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình. Theo
Lương Thị Thoa, “tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên là một bộ phận của ý thức xã hội,
là một loại hình tín ngưỡng dân gian…
Với niềm tin thiêng liêng rằng, tổ tiên tuy
đã chết nhưng linh hồn vẫn còn tồn tại,
có khả năng che chở, phù giúp cho con
cháu, được thể hiện thông qua lễ nghi thờ
phụng…” (Lương Thị Hoa, 2015). Hiểu
theo nghĩa đơn giản, tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên là việc thờ cúng những người có
cùng huyết thống đã qua đời như ông bà,
cha mẹ hay dòng họ nội ngoại. Tùy theo
197
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 10 - 2020
những gia đình sống trên ghe: “Ông chờ nên ở miền Tây, tín ngưỡng này cũng rất
Giang quay đi rồi mới đốt nén nhang cắm phổ biến, hầu như nhà nào cũng có bàn
trên cái trang thờ treo trên vách: “Còn thờ Ông Thiên và Ông Địa. Bàn thờ Ông
bà, bà đã thành nước, thành đất, thành cỏ Thiên là một bàn thờ nhỏ hình vuông
thành cây, cha con tui ở đâu, xin bà theo được đặt trên một cột trụ cao ngang tầm
đó. Ðám cháu chắt chít của mình rồi sẽ với người lớn, trên bàn thường đặt một
chẳng phải chịu lênh đênh”” (Nhớ sông) bát hương, một bình hoa và vài chung
(Nguyễn Ngọc Tư, 2006).
nước mưa để thờ Trời (Trần Ngọc Thêm,
2014). Theo quan niệm dân gian, bàn thờ
đó chính là cầu nối giữa thượng giới và
hạ giới, những lời cầu khẩn của nhân gian
sẽ được chuyển đến Trời thông qua bàn
thờ này. Từ đó có thể nói, người dân Tây
Nam Bộ dù theo tôn giáo hay không cũng
đều tin rằng có một Đấng siêu nhiên tồn
tại mà họ xem là Ông Trời. Đối với họ,
Ông Trời có quyền lực, có thể cho người
tốt cuộc sống tốt đẹp, an lành và trừng
phạt kẻ xấu một cách thích đáng. Do đó,
người Việt vùng Tây Nam Bộ vô cùng tin
tưởng và lập bàn thờ để thờ kính Trời.
Đối với người dân Việt Nam nói chung
và người Việt vùng Tây Nam Bộ nói
riêng, ông bà tổ tiên tuy không còn hiện
diện với con cháu một cách hữu hình
bằng xương bằng thịt, thế nhưng trong
tâm thức của họ, các ngài vẫn luôn ở bên
để che chở và bảo vệ cho con cháu. Người
Việt luôn tin rằng tổ tiên đã qua đời vẫn
có thể lắng nghe những lời con cháu cầu
khẩn, nên họ thường đốt nhang và cầu
nguyện trước bàn thờ: “Chỉ biết chị phải
về sụp xuống trước bàn thờ, để thưa:
“Đó, ba má thấy chưa, con đã nói là
thằng Võ đi chơi mà...”” (Mộ gió),
Qua truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
(Nguyễn Ngọc Tư, 2012), điều đó cũng Tư, bàn thờ Ông Thiên cũng được nhắc
được thể hiện qua truyện ngắn Một mối đến: “Có lần dượng đi đám giỗ ba bữa
tình: “Thằng Bầu cháu tôi sẽ te tái chạy chưa về, dì lấy tờ giấy vẽ bản đồ nhà
lên gian nhà chính, lại chỗ bàn thờ lớn mình, vẽ sông Cái Tàu cong cong ẹo ẹo
nhất, thành kính vặn ngọn đèn chong cho qua rạch Giồng Ông, vẽ chòm cây trâm
tỏ lên, ý như nói với những người đã bầu dưới bến, vẽ cái nhà có bàn ông
khuất, “Thưa! Dì Út con tới rồi nè” như Thiên đằng trước, ghi chú rõ ràng “Nhà
hồi xưa bác Chín, ba Trọng rồi Trọng Hai Hiệp”” (Tình lơ) (Nguyễn Ngọc Tư,
từng làm vậy mỗi khi có khách tới 2012), điều đó cũng được thể hiện qua
nhà”(Nguyễn Ngọc Tư, 2006). Niềm tin truyện ngắn Sổ lồng: “Không biết đi cách
đó là một trong những lí do giúp tín nào, bao lâu, bằng gì, chỉ biết sực tỉnh
ngưỡng thờ cúng tổ tiên tồn tại cho đến nhìn quanh là cái bàn ông thiên nằm giữa
tận ngày nay.
bụi bông trang đỏ hiện ra. Nuốt ực bao
nhiêu đau đớn bên cái cổng rào ọp ẹp,
như mọi khi, chị làm mặt tỉnh bước vào”
(Nguyễn Ngọc Tư, 2014).
Bên cạnh thờ cúng tổ tiên, người Việt
vùng Tây Nam Bộ cũng phổ biến tín
ngưỡng thờ Trời Đất. Chính nhờ sự liên
hệ bền chặt và mật thiết với thiên nhiên
198
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 10 - 2020
Bên cạnh việc thờ Trời, người dân với chị dâu, mai đi coi cúng đình” (Nút
miền Tây Nam Bộ còn có tục thờ Đất, thể áo) (Nguyễn Ngọc Tư, 2016). Ngoài ra,
hiện qua hình ảnh Ông Địa. Qua đó có thể những dịp cúng bái là thời gian các đoàn
thấy, người dân vùng đồng bằng sông hát bội về diễn xướng, vừa hát để cho
Cửu Long đã nhận ra giá trị, biết quý thần xem, vừa giúp người dân giải trí sau
trọng thiên nhiên – nơi cưu mang con những ngày lao động vất vả. Không chỉ
người – và tôn kính những vị thần cai riêng Thành Hoàng, họ còn thờ Bạch Hổ,
quản chúng theo quan niệm dân gian là Ngũ Hành nương nương, Bà Chúa Xứ,
Ông Thiên và Ông Địa. Đó cũng là một Ông Tà (Thần Đá Neakta của người
nét văn hóa tốt đẹp của người miền Tây. Khmer)… trong khuôn viên của đình làng
(Trần Ngọc Thêm, 2014): “Chừng năm
Ngoài ra, tín ngưỡng thờ Thành Hoàng
năm trước, ông còn vô bếp nấu cơm, mắt
Bổn Cảnh (còn gọi là Thần Hoàng) cũng
mũi tèm nhèm để lửa táp vô vách lá, nhà
được Nguyễn Ngọc Tư nhắc nhiều qua
cháy rụi. Anh Hết cất lại nhà trên nền cũ
truyện ngắn của mình. Ngoài việc thờ
đầy tro, nhìn xa nhà lớn hơn miếu ông Tà
Trời Đất một cách chung chung, người
một chút” (Hiu hiu gió bấc) (Nguyễn
Việt vùng Tây Nam Bộ còn thờ Thành
Hoàng Bổn Cảnh (nghĩa là “Thành
Ngọc Tư, 2006).
Hoàng của vùng đất này”) để chỉ sự cai
Theo Lương Thị Thoa, tín ngưỡng thờ
quản cụ thể về mặt tâm linh vì “Đất có Thành Hoàng và thờ Trời Đất thực chất là
Thổ công, sông có Hà bá; cảnh thổ nào cấp độ cao hơn của tín ngưỡng thờ cúng
phải có Thành Hoàng ấy” (Trần Ngọc tổ tiên. Xét theo nghĩa rộng, thờ cúng tổ
Thêm, 2014). Họ tin rằng Thành Hoàng tiên được phân thành ba cấp bậc dựa theo
sẽ phù hộ cho cả làng được ấm no, bình ba phạm vi: thờ cúng ông bà tổ tiên mang
an, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi cùng huyết thống (phạm vi gia đình), thờ
tốt… Cũng như khu vực Bắc Bộ và Trung cúng Thành Hoàng là những vị Tổ nghề
Bộ, Thành Hoàng ở vùng Tây Nam Bộ hay người có công khai phá vùng đất,
cũng được người dân thờ cúng trong đình dựng làng, lập ấp, đánh giặc, cứu dân…
làng: “Đám cháy lớn sau đình suýt nữa (phạm vi làng xã) và thờ Trời Đất hoặc
thiêu rụi gian thờ thần hoàng đêm hôm những người được coi là thủy tổ của quốc
ấy, người ta nói Lý châm lửa chớ ai” (Sổ gia (phạm vi cả nước), (Lương Thị Thoa,
lồng), (Nguyễn Ngọc Tư, 2014).
2015).
Chức năng chính của đình làng là thờ
Một tín ngưỡng cũng rất phổ biến
phượng Thành Hoàng, đây là nơi diễn ra trong giới nghệ sĩ ở miền Nam là giỗ Tổ
các hoạt động cúng bái và sinh hoạt tín nghề hát. Các gánh hát bội, cải lương từ
ngưỡng của người dân: “Nếu không phải xa xưa đều có bàn thờ Tổ trong hậu đài,
nấu cơm giặt giũ Tím sẽ săm soi nút áo, giới nghệ sĩ cho rằng Tổ nghề là hai vị
như nuốt trộng bằng mắt, ghi khắc, đóng hoàng tử vì đam mê xem hát đến nỗi chết
đinh nó vào lòng mình. Một bữa Tím hỉ cóng vì đói và kiệt sức, sau khi mất vẫn
mũi cái rột, lấy cùi tay lau nước mắt, nói thường hiện về để xem hát, thường gọi là
199
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 10 - 2020
ông “Làng”. Hằng năm, tất cả gánh hát mà còn là niềm hy vọng, là khát khao
đều tổ chức lễ giỗ Tổ vào ngày 11 và 12 đáng trân trọng của họ. Ngoài ra, sự
tháng 8 âm lịch. Nguyễn Ngọc Tư cũng phong phú về tín ngưỡng còn góp phần
có nhắc đến dị bản của giai thoại về các tạo nên sự đa dạng nhưng vẫn mang nét
vị Tổ nghề hát qua truyện ngắn Cuối mùa đặc trưng riêng về văn hóa tinh thần của
nhan sắc: “Ông vẫn thường khì khịt bảo người Việt vùng Tây Nam Bộ.
rằng mình bị Tổ nhập, ba ông hoàng tử
Càn, Chơn, Chất đó, cũng vì đam mê
2.2.2. Biểu hiện tôn giáo của người
Việt vùng Tây Nam Bộ qua truyện ngắn
nghệ thuật sân khấu mà bỏ cung son, trốn
của Nguyễn Ngọc Tư
tránh triều đình, cuối cùng chết trên cây
Tôn giáo là một phần quan trọng trong
đời sống tinh thần của người dân vùng
Tây Nam Bộ. Đây còn là vùng đất lành
của tôn giáo trên cơ sở vừa kế thừa, phát
huy những tôn giáo đã du nhập vào Việt
Nam trước đó (Công giáo, Islam giáo,
Phật giáo…) vừa góp phần tạo nên một
bản sắc nhờ sự hình thành những tôn giáo
bản địa từ nửa cuối thế kỉ XIX đến nửa
đầu thế kỉ XX (Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ
Ân Hiếu Nghĩa, đạo Cao đài, Phật giáo
Hòa Hảo…). Tuy nhiên, Nguyễn Ngọc
Tư chỉ nhắc đến Phật giáo và Công giáo
qua truyện ngắn của mình. Theo thống kê
của chúng tôi, trong 173 lần được nhắc
đến, tôn giáo chiếm khoảng 77,8% (135
lần) và tín ngưỡng chiếm khoảng 22,2%
(38 lần). Tuy nhiên, dù chiếm gần 80%,
tần suất xuất hiện của các tôn giáo ấy
trong các tác phẩm lại rất ít: Công giáo
chỉ chiếm 3/77 tác phẩm (chiếm khoảng
3,9%), trong khi đó, Phật giáo là 9/77 tác
phẩm (chiếm khoảng 11,7%). Từ đó có
thể thấy được, tôn giáo tuy được nhắc đến
nhiều nhưng lại không phổ quát mà chỉ
chiếm hơn 1/10 trong tổng số tác phẩm,
nghĩa là chỉ có một vài tác phẩm tiêu biểu
được viết chuyên biệt về tôn giáo, đơn cử
như truyện ngắn Củi mục trôi về, được
nhắc đến 81/131 lần (chiếm khoảng gần
vông nem đó, thấy chưa. Có người cười,
thằng Vũ bị tình nhập chớ Tổ gì nhập vô
nó nổi” (Nguyễn Ngọc Tư, 2006). Ngoài
ra, những ngày giỗ Tổ cũng được cô đưa
vào tác phẩm của mình: “Có những lần
giỗ Tổ, đoàn giao cho chị đóng vai Tô
Ánh Nguyệt trong trích đoạn gặp lại
thằng Tâm, lúc con trai mình mắng mỏ
một hồi rồi bỏ đi, Nguyệt kêu, “Tâm, con
đuổi má sao con?”” (Làm má đâu có dễ)
(Nguyễn Ngọc Tư, 2006), điều đó cũng
được thể hiện trong tác phẩm Cuối mùa
nhan sắc: “Cái bữa cả nhà Buổi Chiều
được xe hơi đón đi giỗ Tổ ở nhà hát thành
phố, ông Chín giữ nhà” (Nguyễn Ngọc
Tư, 2006). Việc kính nhớ đến Tổ nghề thể
hiện tinh thần “tôn sư trọng đạo”, “ăn
quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ
nguồn” của những người theo nghiệp
xướng ca.
Từ đó có thể thấy được, đời sống tín
ngưỡng của người dân đồng bằng sông
Cửu Long vô cùng phong phú. Họ tin
tưởng vào sự hiện diện vô hình của tổ tiên
và những vị thần bảo hộ vùng đất nơi
mình đang sống, giúp che chở tai họa và
ban cho họ được ấm no, hạnh phúc. Đó
không chỉ là niềm tin của những con
người đã cất công khai khẩn vùng đất này
200
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 10 - 2020
62% các chi tiết về Phật giáo trong 77 tác
phẩm).
Cũng tương tự Phật giáo, Công giáo
cũng xuất hiện qua truyện ngắn của tác
giả bằng hình ảnh nhà thờ và những tu sĩ.
Nhìn chung, Công giáo ở Nam bộ không
phát sinh ra những hệ phái mới mà vẫn
giữ nguyên như Công giáo ở các khu vực
khác. Xét về lịch sử, Công giáo được du
nhập vào Việt Nam nói chung và miền
Nam nói riêng khá muộn so với Phật giáo.
Do đó, số tín đồ thuộc tôn giáo này vẫn
chiếm tỉ lệ nhỏ trong cộng đồng người
Việt vùng Tây Nam Bộ. Qua truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư, tôn giáo này cũng
chủ yếu xuất hiện dưới hình ảnh thánh
đường hay những vị tu sĩ: “Sau này khi
nhìn lại hình cưới của mình, ba thấy có
một tấm chụp chung với bên nhà gái,
những dì phước. Họ tới lễ cưới chớp
nhoáng vì nhà thờ có cha đang đau nặng,
“mà cũng không thể bỏ tụi nhỏ ở nhà
lâu”” (Vực không đáy) (Nguyễn Ngọc
Tư, 2016), hay trong tác phẩm Tiều tụy
vòng quanh: “Một ngày làm việc của ông
kết thúc, khi chuông nhà thờ đổ, và làng
mở những bản hòa tấu quen thuộc, thứ
nhạc cả chục năm nay không đổi, phảng
phất tựa khói nhang” (Nguyễn Ngọc Tư,
2016).
Qua truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
Tư, Phật giáo xuất hiện chủ yếu dưới hình
ảnh những mái chùa và nhà sư: “Gã, khúc
củi mục trôi giạt về Thổ Sầu, ghé qua
ngôi chùa nghèo này. Nghèo đến mức
người xa về không biết gọi là nhà hay
chùa” (Củi mục trôi về), (Nguyễn Ngọc
Tư, 2014). Điều đó cũng được thể hiện
trong tác phẩm Cánh đồng bất tận: “Cái
trường xiêu dựng trên khu vườn chùa đầy
cây thuốc, có ông thầy trẻ tuổi hay vò đầu
tôi và xao xuyến hỏi, má khoẻ hôn con?”
(Nguyễn Ngọc Tư, 2011).
Những ngôi chùa trở nên rất thân thuộc
trong đời sống của người dân địa phương:
“Con nhỏ mà thầy nói, vẫn thường ghé
chùa chơi, mấy hôm rày không biết đau
ốm chi mà không thấy. Gã ở chùa, người
đến chùa bỗng đông.” (Nguyễn Ngọc Tư,
2014). Họ thường đi chùa, gần như trở
thành thói quen, hoặc khi cần cầu nguyện,
khấn vái điều gì, đặc biệt là vào những
ngày rằm: “Tôi thích chị Thắm những
ngày sực nức mùi xà bông thơm, cười ỏ ẻ
khoe, “bữa nay rằm, bà lớn đi chùa, ông
chồng hứa qua chơi...”(Nguyễn Ngọc
Tư, 2012). Đó còn là cứu cánh cuối cùng
của những kiếp người cơ nhỡ, che chở
những phận người xem chừng đã hứng
chịu đủ cay đắng mùi đời: “Bờ đất đó giờ
rối nùi cỏ dại, thầy ngậm ngùi, “Ở chùa
với tôi, đắp đổi cơm rau qua ngày…”
(Nguyễn Ngọc Tư, 2014) hay “Người ở
chùa, người bán vé số, người ngủ công
viên, người hát rong, ít ai có nhà để về”
(Nguyễn Ngọc Tư, 2011).
Nhìn chung, đời sống tôn giáo của
người Việt vùng Tây Nam Bộ qua truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đã phần nào
tạo nên một chỗ dựa tinh thần vững chắc
giúp họ có sức mạnh đối diện với thiên
nhiên hoang hóa và cuộc sống còn nhiều
trở ngại từ những ngày đầu cư trú trên
vùng đất mới.
201
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 10 - 2020
20/5/2019.
3. KẾT LUẬN
Những đặc trưng về tín ngưỡng và tôn
giáo đã phần nào thể hiện được đời sống
3. Lương Thị Thoa, 2015. Tín
tâm linh vô cùng phong phú của người ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở một số quốc
Việt vùng đồng bằng sông Cửu Long qua gia trên thế giới và Việt Nam (Sách
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Nhận tham khảo) (chủ biên), Nxb Chính trị
thức được thân phận bé nhỏ của mình Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
trước thiên nhiên, họ tin tưởng những thế
4. Ngô Văn Lệ, 2017. Vùng đất
lực siêu nhiên sẽ bảo vệ họ khỏi những
Nam Bộ (tập VII) – Đặc trưng tín
nguy hiểm của cuộc sống. Ngày nay, tuy
ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hoá
khoa học đã vén được nhiều bức màn tâm
(chủ biên). Nxb Chính trị Quốc gia – Sự
linh để đưa con người đến cuộc sống hiện
thật. Hà Nội.
đại, tín ngưỡng và tôn giáo vẫn cứ tồn tại
5. Nguyễn Ngọc Tư, 2006. Giao
thừa. Nxb Trẻ. Thành phố Hồ Chí Minh.
trong tâm thức của người Việt vùng Tây
Nam Bộ. Đối với họ, tín ngưỡng và tôn
giáo giúp ủi an tâm hồn con người và
hướng dẫn họ đến những điều tốt đẹp.
Văn hóa tinh thần của người Việt vùng
Tây Nam Bộ nói chung, tín ngưỡng và
tôn giáo nói riêng đã góp phần không nhỏ
cho truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
thêm đa dạng và đặc sắc.
6. Nguyễn Ngọc Tư, 2011. Cánh
đồng bất tận. Nxb Trẻ. Thành phố Hồ
Chí Minh.
7. Nguyễn Ngọc Tư, 2012. Khói trời
lộng lẫy. Nxb Trẻ. Thành phố Hồ Chí
Minh.
8. Nguyễn Ngọc Tư, 2014. Đảo.
Nxb Trẻ. Thành phố Hồ Chí Minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huỳnh Công Tín, 2009. Từ điển
Từ ngữ Nam Bộ. Nxb Chính trị Quốc
gia – Sự thật. Hà Nội.
9. Nguyễn Ngọc Tư, 2016. Không ai
qua sông. Nxb Trẻ. Thành phố Hồ Chí
Minh.
2. Huỳnh Trụ. Công Giáo – Thiên
Chúa Giáo.
10. Trần Ngọc Thêm, 2014. Văn hoá
người Việt vùng Tây Nam Bộ (chủ
biên., Nxb Văn hoá – Văn nghệ. Thành
phố Hồ Chí Minh.
202
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô
Số 10 - 2020
BELIEFS AND RELIGIONS OF VIETNAMESE IN THE SOUTHWEST
REGION THROUGH SHORT STORIES OF NGUYEN NGOC TU
Nguyen Thuy Diem
Faculty of Linguistics and Literature, Tay Do Universirty
(Email: nguyenthuydiem8@gmail.com)
ABSTRACT
Beliefs and religions are two of the outstanding and diverse cultural forms of the Vietnamese
ethnic group in the Southwest region. It can be concerned that beliefs and religions are the
spiritual values of the people of this land, which have a great impact on the spiritual life and
cultural activities of people in the Mekong Delta, typically is a Vietnamese ethnic group from this
area. In this article, we use the statistical description and analysis - synthesis methods to
understand the religious manifestations of the Vietnamese ethnic group from the Southwest
region through the short stories of Nguyen Ngoc Tu. These features were clearly portrayed by
the author in a serie of seven typical short stories written from 2001 to 2016, contributing to
expressing the author's contemplation and understanding with the spiritual culture of the
Vietnamese ethnic group in Southwest region.
Keywords: Nguyen Ngoc Tu, beliefs, religions, short story, Southwest region
203
Bạn đang xem tài liệu "Tín ngưỡng và tôn giáo của người Việt vùng Tây Nam Bộ qua truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tin_nguong_va_ton_giao_cua_nguoi_viet_vung_tay_nam_bo_qua_tr.pdf