Tác động của đặc điểm doanh nghiệp và hội đồng quản trị đến quản trị lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 42-50  
VNU Journal of Economics and Business  
Original Article  
Impacts of Firm and Board Characteristics on Earnings  
Management of Listed Firms on Vietnam Stock Market  
Nguyen Vinh Khuong, Nguyen Cam Van, Nguyen Duy Khang,  
Bui Thanh Loc, Dinh Huynh Bao Tram, Hoang The Vinh  
University of Economics and Law, Vietnam National University - HCM  
No. 669, Quarter 3, Linh Xuan Ward, Thu Duc City, Ho Chi Minh City, Vietnam  
Received 04 April 2021  
Revised 10 June 2021; Accepted 15 June 2021  
Abstract: The paper studies the effects of firm and board characteristics on the earnings  
management of firms listed on the Vietnam stock market. The data is collected from 100 firms listed  
on the Vietnam stock markets for the period 2014-2018. The results show that board independence  
and tangible assets have a negative impact on earnings management, while firm size and leverage  
have a positive impact on earnings management. Board size is not statistically significant. The results  
of this study can help managers to make recommendations and adjustments suitable to each firm. In  
addition, firms should minimize asymmetric information, leading to helping the regulator, users, and  
stakeholders make better decisions.  
Keywords: Firm characteristics, board characteristics, earnings management.  
__________  
Corresponding author  
Email address: khuongnv@uel.edu.vn  
42  
VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 42-50  
43  
Tác động của đặc điểm doanh nghiệp và hội đồng quản trị  
đến quản trị lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết  
trên thị trường chứng khoán Việt Nam  
Nguyễn Vĩnh Khương*, Nguyễn Cẩm Vân, Nguyễn Duy Khang,  
Bùi Thành Lộc, Đinh Huỳnh Bảo Trâm, Hoàng Thế Vinh  
Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh  
Số 669 Quốc lộ 1A, Khu phố 3, Phường Linh Xuân, Thành phố Thủ Đức,  
Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam  
Nhận ngày 04 tháng 4 năm 2021  
Chỉnh sửa ngày 10 tháng 6 năm 2021; Chấp nhận đăng ngày 15 tháng 6 năm 2021  
Tóm tắt: Bài viết xem xét ảnh hưởng của các yếu tố đặc điểm doanh nghiệp và hội đồng quản trị  
đến quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam trên cơ  
sở phân tích dữ liệu nghiên cứu từ 100 doanh nghiệp niêm yết giai đoạn 2014-2018. Kết quả cho  
thấy tỷ lệ thành viên độc lập của hội đồng quản trị và tài sản cố định hữu hình có ảnh hưởng nghịch  
chiều đến quản trị lợi nhuận, trong khi quy mô doanh nghiệp và tỷ lệ nợ có ảnh hưởng thuận chiều  
đến quản trị lợi nhuận, quy mô hội đồng quản trị tác động không có ý nghĩa thống kê. Kết quả nghiên  
cứu cung cấp thêm cơ sở để các nhà quản trị có thể đưa ra những kiến nghị và điều chỉnh phù hợp  
với từng doanh nghiệp nhằm hoạt động hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần giảm thiểu  
việc thông tin bất cân xứng nhằm giúp doanh nghiệp, Nhà nước và các bên liên quan có thể đưa ra  
quyết định đúng đắn hơn.  
Từ khóa: Đặc điểm doanh nghiệp, đặc điểm hội đồng quản trị, quản trị lợi nhuận.  
1. Giới thiệu  
Trong xã hội hiện đại ngày nay, với sự phát  
hưởng của các yếu tố liên quan đến quá trình  
đánh giá hoạt động kinh doanh của một doanh  
nghiệp đối với quản trị lợi nhuận sẽ giúp hạn chế  
sự mập mờ và không rõ ràng trong kết quả kinh  
doanh để từ đó tạo ra môi trường kinh doanh, đầu  
tư minh bạch, công bằng cho các nhà đầu tư.  
triển không ngừng của quá trình toàn cầu hóa,  
đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, nhiều doanh  
nghiệp ở phạm vi quốc gia cũng như quốc tế có  
cơ hội làm việc và hình thành các mối quan hệ  
kinh tế quốc tế với các doanh nghiệp ở nhiều  
quốc gia khác nhau trên thị trường toàn cầu.  
Chính vì thế, các doanh nghiệp phải có đầy đủ  
những báo cáo tài chính đáng tin cậy để giúp các  
nhà đầu tư đưa ra quyết định đúng đắn. Những  
báo cáo tài chính không rõ ràng và không có độ  
tin cậy cao sẽ đem lại nhiều nguy cơ tiềm ẩn cho  
nhà đầu tư cũng như uy tín của doanh nghiệp.  
Quản trị lợi nhuận được coi là một trong những  
công cụ quan trọng để hạn chế những rủi ro về  
kinh tế. Do đó, việc nghiên cứu mức độ ảnh  
Theo Alexander (2017), có hai yếu tố chính  
ảnh hưởng đến quản trị lợi nhuận gồm: yếu tố tài  
chính (báo cáo tài chính về doanh thu, lợi nhuận,  
khoản phải thu, khoản nợ…) và yếu tố phi tài  
chính (giới tính của CEO, tuổi doanh nghiệp,  
ngành, chất lượng kiểm toán, tính độc lập của  
kiểm toán viên…) [1]. Trên thế giới đã có nhiều  
nghiên cứu chỉ ra tác động của các yếu tố ảnh  
hưởng đến quản trị lợi nhuận cũng như xem xét,  
đề xuất kiến nghị thực tiễn đối với các nhà quản  
trị. Tuy nhiên, liệu các yếu tố này có thực sự ảnh  
hưởng đến các doanh nghiệp niêm yết trên thị  
__________  
Tác giả liên hệ  
Địa chỉ email: khuongnv@uel.edu.vn  
N.V. Khuong et al. / VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 42-50  
44  
trường chứng khoán Việt Nam hay không?  
Những năm gần đây các doanh nghiệp Việt Nam  
mới thực sự quan tâm tới quản trị lợi nhuận, do  
đó các công trình nghiên cứu trong nước còn hạn  
chế và chưa thực sự chuyên sâu, chỉ dừng lại ở  
việc xem xét những phương tiện và động cơ thực  
hiện quản trị lợi nhuận hoặc phân tích một nhân  
tố, khía cạnh nào đó, chưa thực sự xác định được  
các yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến quản trị lợi  
nhuận tại thị trường Việt Nam. Để giải quyết  
khoảng trống của các nghiên cứu trước, nghiên  
cứu này tiến hành phân tích mức độ của các yếu  
tố tỷ lệ nợ, quy mô doanh nghiệp và đặc điểm hội  
đồng quản trị (HĐQT) ảnh hưởng đến quản trị  
lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết trên thị  
trường chứng khoán Việt Nam. Kết quả nghiên  
cứu góp phần giúp các doanh nghiệp hoạt động  
hiệu quả hơn nhờ mở ra hướng giải quyết giảm  
thiểu tác động của thông tin bất cân xứng giữa  
doanh nghiệp, Nhà nước và các bên liên quan.  
giúp các bên liên quan đưa ra quyết định phù  
hợp là một trong những nội dung quan trọng  
nhất.  
Nghiên cứu về lý thuyết tín hiệu, Morris  
(2012) đã góp phần dự đoán rằng, các doanh  
nghiệp có chất lượng cao hơn sẽ lựa chọn  
chính sách kế toán cho phép thông tin tốt được  
tiết lộ, trong khi các doanh nghiệp có chất  
lượng thấp lựa chọn chính sách kế toán cố gắng  
che giấu thông tin có chất lượng kém [5].  
Chẳng hạn, một doanh nghiệp chất lượng cao  
hơn có thể sẵn sàng cung cấp thông tin bộ phận  
về rủi ro cũng như lợi nhuận theo từng hoạt  
động của nó, còn một doanh nghiệp có chất  
lượng thấp thì không. Tương tự, một doanh  
nghiệp chất lượng cao có thể tự nguyện tiết lộ  
một dự báo thu nhập, còn doanh nghiệp chất  
lượng thấp thì không. Vì thế, để tạo ra điểm  
nhấn về chất lượng hoạt động, các doanh  
nghiệp thường thể hiện vị thế của mình thông  
qua việc công bố thông tin. Nhờ có thông tin  
cung cấp, các đối tượng sẽ đánh giá được sự  
khác biệt trong hoạt động giữa các doanh  
nghiệp khác nhau. Do vậy, mức độ công bố  
thông tin phụ thuộc nhiều vào mức độ phát  
triển của doanh nghiệp, chẳng hạn như quy mô,  
kết quả kinh doanh và tốc độ tăng trưởng.  
2. Cơ sở lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu  
Cơ sở lý thuyết  
Lý thuyết đại diện được phát triển theo  
nghiên cứu của Jensen và Meckling (1976) cho  
thấy rằng trong các công ty cổ phần, các cổ đông  
thông qua HĐQT ủy thác việc điều hành cho  
người đại diện để thực hiện quản lý công ty. Mối  
quan hệ giữa các cổ đông và nhà quản lý làm phát  
sinh xung đột lợi ích, do mỗi bên đều muốn tối  
đa hóa lợi ích của mình, trong đó người đại diện  
người quản lý công ty không phải lúc nào cũng  
hành động vì lợi ích tốt nhất cho người chủ - các  
cổ đông [2]. Để tối đa hóa lợi ích của mình  
(lương, thưởng, giá cổ phiếu), nhà quản lý  
thường vận dụng các kỹ thuật quản trị lợi nhuận  
nhằm làm thay đổi tình hình tài chính [3].  
Lý thuyết thông tin bất cân xứng đi vào  
nghiên cứu tình trạng các bên tham gia vào giao  
dịch không có các lượng thông tin cân xứng  
nhau. Một bên trong giao dịch có lợi thế về thông  
tin, còn bên kia bị bất lợi về thông tin. Thông tin  
ở đây có thể là một hành động hay một đặc điểm  
của bên có lợi thế về thông tin.  
Tổng quan nghiên cứu  
Các nhà quản lý có thể sử dụng các khoản dồn  
tích tùy ý, thay đổi doanh thu giữa các kỳ hoặc  
hoãn ghi nhận các khoản chi [6, 7]. Các nhà  
nghiên cứu cũng đã phát hiện ra việc quản trị lợi  
nhuận thông qua các giao dịch thực [8]. Tất cả các  
cách tiếp cận này đều có điểm mạnh và điểm yếu  
trong việc phát hiện quản trị lợi nhuận. Baker và  
Lopez (2019) đã xem xét ảnh hưởng của quyền  
lực giám đốc điều hành và giám đốc tài chính đối  
với quản trị lợi nhuận và mức độ ảnh hưởng khi  
quyền lực của giám đốc điều hành và giám đốc tài  
chính giảm thiểu đối với quản trị lợi nhuận [9];  
trong khi Suryandari (2019) xem xét các yếu tố về  
rủi ro gian lận và quản trị lợi nhuận [10].  
Theo lý thuyết các bên liên quan do  
Freeman (1984) khởi xướng, để phát triển bền  
vững thì ngoài việc đáp ứng yêu cầu của chủ  
sở hữu, doanh nghiệp cần đáp ứng yêu cầu của  
các đối tượng khác như chủ nợ, nhân viên, nhà  
cung cấp, khách hàng, nhà nước… (được gọi  
chung là bên liên quan) [4]. Trong đó, việc  
công bố thông tin trung thực, hạn chế ảnh  
hưởng tiêu cực của quản trị lợi nhuận nhằm  
N.V. Khuong et al. / VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 42-50  
45  
Tại Việt Nam, Đặng Ngọc Hùng (2014) cho  
rằng việc điều chỉnh lợi nhuận tăng không phụ  
thuộc vào quy mô theo doanh thu của các doanh  
nghiệp, chẳng hạn với các doanh nghiệp có  
doanh thu lớn hơn 1.000 tỷ đồng thì mức độ điều  
chỉnh tăng lợi nhuận không có sự khác biệt so  
với các doanh nghiệp còn lại [11]. Bên cạnh đó,  
theo Nguyễn Công Phương và Nguyễn Thị Uyên  
Phương (2014), có 66,7% số công ty trong mẫu  
có hành động điều chỉnh tăng lợi nhuận trong  
năm tài chính liền trước năm phát hành thêm cổ  
phiếu và mức độ điều chỉnh tăng lợi nhuận phụ  
thuộc thuận chiều vào quy mô của công ty niêm  
yết [12]. Trần Thị Hồng Diễm (2020) cho rằng  
các nhân tố như tính độc lập của HĐQT, đòn bẩy  
tài chính, dòng tiền hoạt động tác động cùng  
chiều đến quản trị lợi nhuận; trong khi nhân tố  
triển vọng phát triển, nhân tố lợi nhuận (ROE)  
tác động ngược chiều đến quản trị lợi nhuận;  
nhân tố quy mô công ty và Big 4 không tác động  
đến quản trị lợi nhuận của các công ty bị mua lại  
niêm y