Tác động của đặc điểm doanh nghiệp và hội đồng quản trị đến quản trị lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 42-50  
VNU Journal of Economics and Business  
Original Article  
Impacts of Firm and Board Characteristics on Earnings  
Management of Listed Firms on Vietnam Stock Market  
Nguyen Vinh Khuong, Nguyen Cam Van, Nguyen Duy Khang,  
Bui Thanh Loc, Dinh Huynh Bao Tram, Hoang The Vinh  
University of Economics and Law, Vietnam National University - HCM  
No. 669, Quarter 3, Linh Xuan Ward, Thu Duc City, Ho Chi Minh City, Vietnam  
Received 04 April 2021  
Revised 10 June 2021; Accepted 15 June 2021  
Abstract: The paper studies the effects of firm and board characteristics on the earnings  
management of firms listed on the Vietnam stock market. The data is collected from 100 firms listed  
on the Vietnam stock markets for the period 2014-2018. The results show that board independence  
and tangible assets have a negative impact on earnings management, while firm size and leverage  
have a positive impact on earnings management. Board size is not statistically significant. The results  
of this study can help managers to make recommendations and adjustments suitable to each firm. In  
addition, firms should minimize asymmetric information, leading to helping the regulator, users, and  
stakeholders make better decisions.  
Keywords: Firm characteristics, board characteristics, earnings management.  
__________  
Corresponding author  
Email address: khuongnv@uel.edu.vn  
42  
VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 42-50  
43  
Tác động của đặc điểm doanh nghiệp và hội đồng quản trị  
đến quản trị lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết  
trên thị trường chứng khoán Việt Nam  
Nguyễn Vĩnh Khương*, Nguyễn Cẩm Vân, Nguyễn Duy Khang,  
Bùi Thành Lộc, Đinh Huỳnh Bảo Trâm, Hoàng Thế Vinh  
Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh  
Số 669 Quốc lộ 1A, Khu phố 3, Phường Linh Xuân, Thành phố Thủ Đức,  
Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam  
Nhận ngày 04 tháng 4 năm 2021  
Chỉnh sửa ngày 10 tháng 6 năm 2021; Chấp nhận đăng ngày 15 tháng 6 năm 2021  
Tóm tắt: Bài viết xem xét ảnh hưởng của các yếu tố đặc điểm doanh nghiệp và hội đồng quản trị  
đến quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam trên cơ  
sở phân tích dữ liệu nghiên cứu từ 100 doanh nghiệp niêm yết giai đoạn 2014-2018. Kết quả cho  
thấy tỷ lệ thành viên độc lập của hội đồng quản trị và tài sản cố định hữu hình có ảnh hưởng nghịch  
chiều đến quản trị lợi nhuận, trong khi quy mô doanh nghiệp và tỷ lệ nợ có ảnh hưởng thuận chiều  
đến quản trị lợi nhuận, quy mô hội đồng quản trị tác động không có ý nghĩa thống kê. Kết quả nghiên  
cứu cung cấp thêm cơ sở để các nhà quản trị có thể đưa ra những kiến nghị và điều chỉnh phù hợp  
với từng doanh nghiệp nhằm hoạt động hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần giảm thiểu  
việc thông tin bất cân xứng nhằm giúp doanh nghiệp, Nhà nước và các bên liên quan có thể đưa ra  
quyết định đúng đắn hơn.  
Từ khóa: Đặc điểm doanh nghiệp, đặc điểm hội đồng quản trị, quản trị lợi nhuận.  
1. Giới thiệu  
Trong xã hội hiện đại ngày nay, với sự phát  
hưởng của các yếu tố liên quan đến quá trình  
đánh giá hoạt động kinh doanh của một doanh  
nghiệp đối với quản trị lợi nhuận sẽ giúp hạn chế  
sự mập mờ và không rõ ràng trong kết quả kinh  
doanh để từ đó tạo ra môi trường kinh doanh, đầu  
tư minh bạch, công bằng cho các nhà đầu tư.  
triển không ngừng của quá trình toàn cầu hóa,  
đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, nhiều doanh  
nghiệp ở phạm vi quốc gia cũng như quốc tế có  
cơ hội làm việc và hình thành các mối quan hệ  
kinh tế quốc tế với các doanh nghiệp ở nhiều  
quốc gia khác nhau trên thị trường toàn cầu.  
Chính vì thế, các doanh nghiệp phải có đầy đủ  
những báo cáo tài chính đáng tin cậy để giúp các  
nhà đầu tư đưa ra quyết định đúng đắn. Những  
báo cáo tài chính không rõ ràng và không có độ  
tin cậy cao sẽ đem lại nhiều nguy cơ tiềm ẩn cho  
nhà đầu tư cũng như uy tín của doanh nghiệp.  
Quản trị lợi nhuận được coi là một trong những  
công cụ quan trọng để hạn chế những rủi ro về  
kinh tế. Do đó, việc nghiên cứu mức độ ảnh  
Theo Alexander (2017), có hai yếu tố chính  
ảnh hưởng đến quản trị lợi nhuận gồm: yếu tố tài  
chính (báo cáo tài chính về doanh thu, lợi nhuận,  
khoản phải thu, khoản nợ…) và yếu tố phi tài  
chính (giới tính của CEO, tuổi doanh nghiệp,  
ngành, chất lượng kiểm toán, tính độc lập của  
kiểm toán viên…) [1]. Trên thế giới đã có nhiều  
nghiên cứu chỉ ra tác động của các yếu tố ảnh  
hưởng đến quản trị lợi nhuận cũng như xem xét,  
đề xuất kiến nghị thực tiễn đối với các nhà quản  
trị. Tuy nhiên, liệu các yếu tố này có thực sự ảnh  
hưởng đến các doanh nghiệp niêm yết trên thị  
__________  
Tác giả liên hệ  
Địa chỉ email: khuongnv@uel.edu.vn  
N.V. Khuong et al. / VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 42-50  
44  
trường chứng khoán Việt Nam hay không?  
Những năm gần đây các doanh nghiệp Việt Nam  
mới thực sự quan tâm tới quản trị lợi nhuận, do  
đó các công trình nghiên cứu trong nước còn hạn  
chế và chưa thực sự chuyên sâu, chỉ dừng lại ở  
việc xem xét những phương tiện và động cơ thực  
hiện quản trị lợi nhuận hoặc phân tích một nhân  
tố, khía cạnh nào đó, chưa thực sự xác định được  
các yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến quản trị lợi  
nhuận tại thị trường Việt Nam. Để giải quyết  
khoảng trống của các nghiên cứu trước, nghiên  
cứu này tiến hành phân tích mức độ của các yếu  
tố tỷ lệ nợ, quy mô doanh nghiệp và đặc điểm hội  
đồng quản trị (HĐQT) ảnh hưởng đến quản trị  
lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết trên thị  
trường chứng khoán Việt Nam. Kết quả nghiên  
cứu góp phần giúp các doanh nghiệp hoạt động  
hiệu quả hơn nhờ mở ra hướng giải quyết giảm  
thiểu tác động của thông tin bất cân xứng giữa  
doanh nghiệp, Nhà nước và các bên liên quan.  
giúp các bên liên quan đưa ra quyết định phù  
hợp là một trong những nội dung quan trọng  
nhất.  
Nghiên cứu về lý thuyết tín hiệu, Morris  
(2012) đã góp phần dự đoán rằng, các doanh  
nghiệp có chất lượng cao hơn sẽ lựa chọn  
chính sách kế toán cho phép thông tin tốt được  
tiết lộ, trong khi các doanh nghiệp có chất  
lượng thấp lựa chọn chính sách kế toán cố gắng  
che giấu thông tin có chất lượng kém [5].  
Chẳng hạn, một doanh nghiệp chất lượng cao  
hơn có thể sẵn sàng cung cấp thông tin bộ phận  
về rủi ro cũng như lợi nhuận theo từng hoạt  
động của nó, còn một doanh nghiệp có chất  
lượng thấp thì không. Tương tự, một doanh  
nghiệp chất lượng cao có thể tự nguyện tiết lộ  
một dự báo thu nhập, còn doanh nghiệp chất  
lượng thấp thì không. Vì thế, để tạo ra điểm  
nhấn về chất lượng hoạt động, các doanh  
nghiệp thường thể hiện vị thế của mình thông  
qua việc công bố thông tin. Nhờ có thông tin  
cung cấp, các đối tượng sẽ đánh giá được sự  
khác biệt trong hoạt động giữa các doanh  
nghiệp khác nhau. Do vậy, mức độ công bố  
thông tin phụ thuộc nhiều vào mức độ phát  
triển của doanh nghiệp, chẳng hạn như quy mô,  
kết quả kinh doanh và tốc độ tăng trưởng.  
2. Cơ sở lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu  
Cơ sở lý thuyết  
Lý thuyết đại diện được phát triển theo  
nghiên cứu của Jensen và Meckling (1976) cho  
thấy rằng trong các công ty cổ phần, các cổ đông  
thông qua HĐQT ủy thác việc điều hành cho  
người đại diện để thực hiện quản lý công ty. Mối  
quan hệ giữa các cổ đông và nhà quản lý làm phát  
sinh xung đột lợi ích, do mỗi bên đều muốn tối  
đa hóa lợi ích của mình, trong đó người đại diện  
người quản lý công ty không phải lúc nào cũng  
hành động vì lợi ích tốt nhất cho người chủ - các  
cổ đông [2]. Để tối đa hóa lợi ích của mình  
(lương, thưởng, giá cổ phiếu), nhà quản lý  
thường vận dụng các kỹ thuật quản trị lợi nhuận  
nhằm làm thay đổi tình hình tài chính [3].  
Lý thuyết thông tin bất cân xứng đi vào  
nghiên cứu tình trạng các bên tham gia vào giao  
dịch không có các lượng thông tin cân xứng  
nhau. Một bên trong giao dịch có lợi thế về thông  
tin, còn bên kia bị bất lợi về thông tin. Thông tin  
ở đây có thể là một hành động hay một đặc điểm  
của bên có lợi thế về thông tin.  
Tổng quan nghiên cứu  
Các nhà quản lý có thể sử dụng các khoản dồn  
tích tùy ý, thay đổi doanh thu giữa các kỳ hoặc  
hoãn ghi nhận các khoản chi [6, 7]. Các nhà  
nghiên cứu cũng đã phát hiện ra việc quản trị lợi  
nhuận thông qua các giao dịch thực [8]. Tất cả các  
cách tiếp cận này đều có điểm mạnh và điểm yếu  
trong việc phát hiện quản trị lợi nhuận. Baker và  
Lopez (2019) đã xem xét ảnh hưởng của quyền  
lực giám đốc điều hành và giám đốc tài chính đối  
với quản trị lợi nhuận và mức độ ảnh hưởng khi  
quyền lực của giám đốc điều hành và giám đốc tài  
chính giảm thiểu đối với quản trị lợi nhuận [9];  
trong khi Suryandari (2019) xem xét các yếu tố về  
rủi ro gian lận và quản trị lợi nhuận [10].  
Theo lý thuyết các bên liên quan do  
Freeman (1984) khởi xướng, để phát triển bền  
vững thì ngoài việc đáp ứng yêu cầu của chủ  
sở hữu, doanh nghiệp cần đáp ứng yêu cầu của  
các đối tượng khác như chủ nợ, nhân viên, nhà  
cung cấp, khách hàng, nhà nước… (được gọi  
chung là bên liên quan) [4]. Trong đó, việc  
công bố thông tin trung thực, hạn chế ảnh  
hưởng tiêu cực của quản trị lợi nhuận nhằm  
N.V. Khuong et al. / VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 42-50  
45  
Tại Việt Nam, Đặng Ngọc Hùng (2014) cho  
rằng việc điều chỉnh lợi nhuận tăng không phụ  
thuộc vào quy mô theo doanh thu của các doanh  
nghiệp, chẳng hạn với các doanh nghiệp có  
doanh thu lớn hơn 1.000 tỷ đồng thì mức độ điều  
chỉnh tăng lợi nhuận không có sự khác biệt so  
với các doanh nghiệp còn lại [11]. Bên cạnh đó,  
theo Nguyễn Công Phương và Nguyễn Thị Uyên  
Phương (2014), có 66,7% số công ty trong mẫu  
có hành động điều chỉnh tăng lợi nhuận trong  
năm tài chính liền trước năm phát hành thêm cổ  
phiếu và mức độ điều chỉnh tăng lợi nhuận phụ  
thuộc thuận chiều vào quy mô của công ty niêm  
yết [12]. Trần Thị Hồng Diễm (2020) cho rằng  
các nhân tố như tính độc lập của HĐQT, đòn bẩy  
tài chính, dòng tiền hoạt động tác động cùng  
chiều đến quản trị lợi nhuận; trong khi nhân tố  
triển vọng phát triển, nhân tố lợi nhuận (ROE)  
tác động ngược chiều đến quản trị lợi nhuận;  
nhân tố quy mô công ty và Big 4 không tác động  
đến quản trị lợi nhuận của các công ty bị mua lại  
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam  
[13].  
(nhà quản lý sẽ theo đuổi lợi ích cá nhân hấp dẫn  
mà bỏ qua lợi ích của các cổ đông và doanh  
nghiệp). Một mối lo ngại nữa là các doanh  
nghiệp có quy mô càng lớn thì kỳ vọng vào chỉ  
tiêu lợi nhuận dự báo càng cao. Barton và Simko  
(2002) cho rằng các doanh nghiệp lớn phải đối  
mặt với nhiều áp lực để đáp ứng được yêu cầu  
của các nhà phân tích [15]. Kết quả là, các doanh  
nghiệp lớn thiên về áp dụng quản trị lợi nhuận  
theo cách cơ hội hơn, do đó, giả thuyết 2 được  
phát triển như sau:  
H2: Quy mô doanh nghiệp tác động thuận  
chiều đến quản trị lợi nhuận.  
Quy mô HĐQT: Theo Fama và Jensen  
(1983), HĐQT nhỏ thì sẽ hiệu quả hơn bởi vì họ  
ít gặp khó khăn trong việc giám sát, điều phối và  
quản lý [16]. Tương tự, nghiên cứu của  
Charfeddine và cộng sự (2013) cung cấp bằng  
chứng cho thấy quy mô HĐQT có tương quan  
thuận với quản trị lợi nhuận ở Malaysia, Đài  
Loan và Tunisia [17]. Do đó, giả thuyết 3 được  
phát triển như sau:  
Giả thuyết nghiên cứu  
H3: Quy mô HĐQT tác động thuận chiều đến  
quản trị lợi nhuận.  
Tỷ lệ nợ: Đây là một trong những giả thuyết  
chính của lý thuyết kế toán thực chứng, được đề  
cập bởi Watts và Zimmerman (1979) [14]. Các  
tác giả cho rằng các nhà quản lý có nhiều khả  
năng chuyển báo cáo lợi nhuận của kỳ tiếp theo  
sang kỳ hiện tại, xét theo khía cạnh doanh nghiệp  
đang tiến gần hơn đến một thỏa thuận tín dụng vì  
hợp đồng nợ sẽ tốn kém hơn do nó làm tăng chi  
phí vốn nợ và giảm các khoản đầu tư hữu ích. Do  
đó, giả thuyết 1 được xây dựng như sau:  
Tính độc lập của HĐQT: Các nghiên cứu của  
Xie và cộng sự (2003), Peasnell và cộng sự  
(2005) cho thấy các doanh nghiệp có các thành  
viên độc lập không tham gia điều hành có xu  
hướng ít áp dụng quản trị lợi nhuận hoặc các báo  
cáo về khoản dồn tích bất thường [18, 19]. Iraya  
và cộng sự (2015) chỉ ra mối tương quan nghịch  
giữa các thành viên độc lập không tham gia điều  
hành và hoạt động quản trị lợi nhuận ở Nairobi,  
Kenya [20]. Do đó, giả thuyết 4 được phát triển  
như sau:  
H1: Tỷ lệ nợ tác động thuận chiều đến quản  
trị lợi nhuận.  
Quy mô doanh nghiệp: Theo Watts và  
Zimmerman (1979), các doanh nghiệp lớn  
thường thu hút nhiều sự chú ý hơn so với các  
doanh nghiệp nhỏ, khiến cho các doanh nghiệp  
trước đây phải phân bổ tài sản của họ thông qua  
các cơ chế như thuế và bảo hiểm [14]. Do đó, các  
doanh nghiệp lớn thường lựa chọn các phương  
pháp kế toán cho phép trì hoãn việc công bố lợi  
nhuận. Cụ thể hơn, quy mô doanh nghiệp sẽ ảnh  
hưởng đến các quyết định, bởi theo cơ cấu,  
doanh nghiệp càng lớn thì càng có sự tách biệt  
giữa quyền quản lý và quyền sở hữu. Sự tách biệt  
này càng lớn, các mối lo ngại có thể phát sinh  
H4: Tính độc lập của HĐQT tác động nghịch  
chiều đến quản trị lợi nhuận.  
Tài sản hữu hình của doanh nghiệp: Trước  
hết, giá trị tài sản hữu hình của doanh nghiệp có  
liên quan đến các phương pháp kế toán được xem  
như thủ thuật của quản trị lợi nhuận, như phương  
pháp khấu hao tài sản cố định hay phương pháp  
ghi nhận chi phí sửa tài sản cố định [8]. Điều này  
cho phép các nhà quản trị áp dụng để thực hiện  
quản trị lợi nhuận. Tuy nhiên, Black và cộng sự  
(2006) cho rằng PPE có tác động ngược chiều  
N.V. Khuong et al. / VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 42-50  
46  
Mô hình của Jones (1991)  
đến quản trị lợi nhuận do PPE tăng kéo theo làm  
tăng chi phí khấu hao cơ bản [21]. Do đó, giả  
thuyết 5 được phát triển như sau:  
Jones (1991) đưa ra một mô hình làm suy  
yếu giả định rằng các khoản dồn tích không thể  
điều chỉnh (NDA) là các bất biến [6]. Mô hình  
này nỗ lực kiểm soát tác động của những thay  
đổi trong bối cảnh kinh tế của một doanh  
nghiệp lên NDA. Mô hình được thể hiện  
như sau:  
H5: Giá trị tài sản hữu hình tác động nghịch  
chiều đến quản trị lợi nhuận.  
3. Mô hình nghiên cứu  
Tác giả sử dụng mô hình của Jones (1991),  
Kothari và cộng sự (2005) để đo lường quản trị  
lợi nhuận [6, 22].  
Biến NDA:  
NDAt  
At-1  
TAt  
At-1  
1
At-1  
PPEt  
At-1  
REVt  
At-1  
=
=
α1  
+
α2  
+
α3  
Trong đó:  
Mô hình của Kothari và cộng sự (2005)  
- NDAt: Biến kế toán dồn tích không thể điều  
chỉnh được năm t  
Kothari và cộng sự (2005) tiếp tục phát triển  
mô hình của Jones (1991), Dechow và cộng sự  
(1995) trên cơ sở xem xét biến về kết quả hoạt  
động [22, 6, 7]. Mục đích của tác giả là nghiên  
cứu mối quan hệ tuyến tính giữa biến dồn tích và  
kết quả hoạt động. Do đó, mô hình tuyến tính  
xem xét kết quả hoạt động của Kothari và cộng  
sự (2005) như sau:  
- TAt: Tổng biến dồn tích năm t  
- At-1: Tài sản cuối năm t-1  
- REVt: Doanh thu thuần năm t  
- PPEt: Nguyên giá của tài sản cố định hữu  
hình  
NDAt  
At-1  
1
At-1  
PPEt  
At-1  
(REVt-RECt)  
=
α1  
+
α2  
+
α3  
+ α4 ROAt-1 + ε  
At-1  
nghiên cứu. Các biến trong mô hình nghiên cứu  
được trình bày trong Bảng 1.  
Trong đó:  
- RECt: Khoản phải thu năm t  
Mô hình nghiên cứu được đề xuất như sau:  
- ROAt-1: Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản năm t-1  
Mẫu nghiên cứu là các doanh nghiệp niêm  
yết trên hai sàn chứng khoán là HOSE, HNX  
trong giai đoạn 2014-2018, cụ thể là 100 doanh  
nghiệp được thu thập từ nguồn dữ liệu  
Datastream của Thomson Reuters tại Trung tâm  
Nghiên cứu Kinh tế Tài chính thuộc Trường Đại  
học Kinh tế - Luật và báo cáo thường niên, báo  
cáo tài chính đã kiểm toán được công bố công  
khai của các doanh nghiệp niêm yết. Các doanh  
nghiệp chỉ được chọn khi có đủ tất cả các chỉ số  
cần thiết để phục vụ cho việc tính toán và không  
phải là những doanh nghiệp đầu tư tài chính và  
ngân hàng (thường bị chi phối bởi yếu tố ngành),  
đồng thời phải có đầy đủ báo cáo tài chính,  
thường niên đã được kiểm toán trong giai đoạn  
퐸푀ꢀꢁ = 훿+ 훿퐵표푎푟푑푠푖푧푒ꢀꢁ +  
퐵표푎푟푑푖푛푑푒푝푒푛푑푒푛푐푒ꢀꢁ + 훿푃푃퐸ꢀꢁ +  
훿 퐿퐸푉 + 훿 푆퐼푍퐸 +  
ꢀꢁ  
ꢀꢁ  
Trong đó:  
- i = 1, 2, 3,..., 100 (với i là thể hiện cho 100  
doanh nghiệp niêm yết)  
- t = 1, 2,…, 5 (với t là khoảng thời gian 5  
năm từ năm 2014 đến năm 2018)  
- δ1, δ2,…, δ5: Hệ số hồi quy đo lường mức  
thay đổi quản trị lợi nhuận trên một đơn vị thay  
đổi của biến độc lập khi mà giá trị của các biến  
độc lập khác là không đổi  
- ε : Sai số ngẫu nhiên  
:
N.V. Khuong et al. / VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 42-50  
47  
Tiếp đến, tác giả sử dụng phương pháp phân  
tích hồi quy OLS, chạy mô hình hồi quy bằng  
phần mềm Stata, sau đó sử dụng kiểm định  
Hausman để lựa chọn mô hình REM nhằm đưa  
ra kết quả hồi quy hữu dụng hơn và kiểm tra đánh  
giá khuyết tật của mô hình. Nếu các kiểm định  
có sự vi phạm, tác giả sẽ tiến hành sử dụng hiệu  
chỉnh Robust để loại bỏ phương sai không đồng  
nhất và hiệu chỉnh Prais-Winsten để khắc phục  
hiện tượng tự tương quan nếu có.  
Bảng 1: Tổng hợp các biến nghiên cứu  
Mã biến  
Dấu  
kỳ vọng  
TT Biến  
Cách đo lường  
Tổng dồn tích không tự định theo mô  
hình Jones và cộng sự (1991) [6]  
1
2
3
AEM_JONES  
AEM_KOTHARI  
BOARDSIZE  
Mô hình theo Jones (1991)[6]  
Tổng dồn tích không tự định theo mô  
hình Kothari và cộng sự (2008) [22]  
Mô hình theo Kothari và cộng  
sự (2005) [22]  
Số lượng thành viên HĐQT  
hàng năm  
Số lượng thành viên HĐQT  
+
-
Tỷ lệ thành viên độc lập trong  
BOARDINDEPENCE HĐQT không tham gia điều  
hành hàng năm  
Tỷ lệ thành viên độc lập trong HĐQT  
không tham gia điều hành  
4
5
6
7
Quy mô doanh nghiệp  
SIZE  
ln(Tổng tài sản)  
+
-
Nguyên giá tài sản cố định hữu  
hình/Tổng tài sản  
Tài sản cố định hữu hình  
PPE  
Đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp  
LEV  
Tổng nợ phải trả/Tổng tài sản  
+
Nguồn: Tổng hợp tác giả.  
Bảng 2: Thống kê mô tả các biến trong mô hình  
4. Kết quả nghiên cứu  
Giá  
trị  
trung  
bình  
Kết quả thống kê ở Bảng 2 cho thấy: Trong  
giai đoạn 2014-2018, quy mô của HĐQT  
(Boardsize) thấp nhất là 3 người và cao nhất là  
11 người với mức trung bình là 5,64 và độ lệch  
chuẩn là 1,28. Tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập  
không tham gia điều hành (Boardindependence)  
dao động từ 0 đến 0,8 với mức trung bình là 0,36  
và độ lệch chuẩn là 0,16. Quy mô doanh nghiệp  
(Size) dao động từ 23,6 đến 32 với mức trung  
bình là 27,51 và độ lệch chuẩn là 1,57. Tổng giá  
trị tài sản hữu hình (PPE) dao động từ 0,0016 đến  
0,95 với mức trung bình là 0,25 và độ lệch chuẩn  
là 0,22. Đòn bẩy tài chính hay tỷ lệ giữa nợ phải  
trả và tổng tài sản (LEV) dao động từ 0,0005 đến  
0,8 với mức trung bình là 0,26 và độ lệch chuẩn  
là 0,17. Tổng dồn tích không tự định theo mô  
hình Jones (AEM_JONES) dao động từ -0,6 đến  
0,65 với mức trung bình là 0,0097 và độ lệch  
chuẩn là 0,13. Tổng dồn tích không tự định theo  
mô hình Jones (AEM_KOTHARI) dao động từ -  
0,6 đến 0,63 với mức trung bình là 0,01 và độ  
lệch chuẩn là 0,12.  
Số  
quan  
sát  
Độ  
lệch  
chuẩn  
Nhỏ Lớn  
nhất nhất  
Mã biến  
Boardsize  
500  
500  
5,64  
0,36  
1,28  
0,16  
3,00 11,0  
Boardinde  
pence  
0,00  
0,8  
Size  
PPE  
LEV  
500  
500  
500  
27,51  
0,25  
0,26  
1,57  
0,22  
0,17  
23,6 32,0  
0,00 0,95  
0,00  
0,8  
AEM_  
JONES  
500  
500  
0,01  
0,01  
0,13  
0,12  
-0,6 0,65  
-0,6 0,63  
AEM_  
KOTHARI  
Nguồn: Kết quả xử lý của tác giả.  
Kết quả hệ số tương quan giữa các biến thể  
hiện ở Bảng 3 nhằm kiểm tra mối tương quan  
giữa các biến độc lập. Bảng 4 cho thấy có rất ít  
mối tương quan giữa hầu hết các biến độc lập, vì  
N.V. Khuong et al. / VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 42-50  
48  
tương quan cao nhất là 0,4825, thấp hơn điểm  
chuẩn 0,5 nên vấn đề về đa hình không nghiêm  
trọng [23], do đó các biến có thể sử dụng được.  
Kết quả mô hình như sau:  
EMit = -1,195 - 0,049 Boardindependenceit -  
0,091 PPEit + 0,053 LEVit + 0,008 Sizeit  
Bảng 3: Hệ số tương quan các biến  
Bảng 5: Kết quả hồi quy FEM theo mô hình của  
Kothari (đã khắc phục các khuyết tật mô hình)  
Board  
Boar  
dsize  
Mã biến  
Indepen  
dence  
Size PPE LEV  
Hệ số Sai số  
hồi quy chuẩn  
Mức ý  
nghĩa  
Kiểm định  
Z
Mã biến  
Boardsize  
Boardinde  
pence  
1,00  
BOARDSIZE  
0,001  
0,002  
0,019  
0,610  
0,542  
0,042  
-0,08  
1,00  
BOARDINDE  
PENDENCE  
-0,04**  
-2,040  
Size  
0,48  
-0,02  
0,02  
-0,1  
0,1  
1,00  
PPE  
0,28  
0,01  
1,00  
SIZE  
PPE  
0,004*** 0,002  
-0,103*** 0,014  
0,115*** 0,017  
2,820  
-7,500  
6,770  
0,005  
0,000  
0,000  
LEV  
-0,1  
0,29 1,00  
Nguồn: Kết quả kiểm định tự tương quan.  
LEV  
Bảng 4: Kết quả hồi quy FEM theo mô hình của  
Jones (đã khắc phục các khuyết tật mô hình)  
-
Hệ số chặn  
0,044  
-2,900  
0,004  
0,128***  
Hệ s Sai số  
hồi quy chuẩn  
Kiểm  
định Z  
0,260  
Mức ý  
nghĩa  
0,793  
Số quan sát  
R2  
500  
Mã biến  
0,079  
0,045  
BOARDSIZE 0,001  
BOARDINDE  
0,002  
Overall  
-0,049** 0,019  
-2,510  
0,012  
PENDENCE  
SIZE  
Kiểm định  
chi2(5) = 94,18  
0,008*** 0,002  
-0,091*** 0,013  
0,053*** 0,018  
-0,195*** 0,049  
500  
4,180  
-6,680  
2,830  
-3,990  
0,000  
0,000  
0,005  
0,000  
Modified Wald  
PPE  
Kiểm định  
Hausman  
chi2(5) = 28,42  
LEV  
P-value = 0,0000  
Hệ số chặn  
Số quan sát  
R2  
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm.  
0,058  
Overall  
0,031  
Kiểm định Hausman dùng để lựa chọn mô  
hình phù hợp giữa FEM và REM. Với giả thiết  
H0, mô hình REM phù hợp hơn. Kết quả từ Bảng  
5 cho thấy P-value < 0,05, vậy bác bỏ H0: Mô  
hình REM phù hợp. Do đó, việc sử dụng mô hình  
FEM sẽ phù hợp hơn.  
Kiểm định  
Modified Wald  
Kiểm định  
Hausman  
chi2(5) = 81,9  
chi2(5) = 32,37  
P-value = 0,0000  
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm.  
Biến Boardsize có p-value là 0,542, tức là  
p-value > 5% nên ta kết luận biến Boardsize  
không có ý nghĩa thống kê đối với biến phụ  
thuộc tổng dồn tích không tự định theo mô  
hình Jones.  
Kiểm định Hausman dùng để lựa chọn mô  
hình phù hợp giữa FEM và REM. Với giả thiết  
H0, mô hình REM phù hợp hơn. Kết quả từ Bảng  
4 cho thấy P-value < 0,05, vậy bác bỏ H0: Mô  
hình REM phù hợp. Do đó, việc sử dụng mô hình  
FEM sẽ phù hợp hơn.  
Biến Boardsize có p-value là 0,793, tức là  
p-value > 5% nên ta kết luận biến Boardsize  
không có ý nghĩa thống kê đối với biến phụ  
thuộc tổng dồn tích không tự định theo mô  
hình Jones.  
R-squared bằng 0,079, các biến độc lập giải  
thích 7,9% sự biến thiên của biến phụ thuộc.  
Kết quả hồi quy cho hai mô hình theo Jones  
và Kothari sử dụng kiểm định Wald đều cho giá  
trị p-value < 5% nên cả hai mô hình có ý nghĩa  
thống kê. Phương pháp kiểm định Modified  
Wald được sử dụng để kiểm định xem có hiện  
R-squared bằng 0,058, các biến độc lập giải  
thích 5,8% sự biến thiên của biến phụ thuộc.  
N.V. Khuong et al. / VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 42-50  
49  
tượng phương sai sai số thay đổi hay không. Kết  
quả mô hình theo Jones cho p-value < 0,05 nên  
có hiện tượng phương sai thay đổi xảy ra, tương  
tự mô hình theo Kothari cũng cho p-value < 0,05  
nên cũng có hiện tượng phương sai thay đổi xảy  
ra. Để kiểm định hiện tượng tự tương quan, tác  
giả sử dụng phương pháp Wooldrige. Cả hai mô  
hình đều cho p-value > 0,05 nên không có hiện  
tượng tự tương quan. Các khuyết tật của mô hình  
sau đó được khắc phục bằng các phương  
pháp OLS.  
2018. Kết quả này sẽ giúp các nhà quản trị đưa  
ra được định hướng phát triển doanh nghiệp hiệu  
quả hơn.  
5. Kết luận  
Nghiên cứu đã đánh giá thực trạng quản trị  
lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết tại  
Việt Nam, đồng thời chỉ ra tác động của các  
yếu tố như tỷ lệ nợ, quy mô doanh nghiệp và  
đặc điểm HĐQT đến các hoạt động kinh doanh  
của doanh nghiệp. Cụ thể, nghiên cứu đã chỉ rõ  
mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tỷ lệ nợ, đòn  
bẩy tài chính, quy mô doanh nghiệp và tỷ lệ  
thành viên HĐQT độc lập không tham gia điều  
hành tác động đến quản trị lợi nhuận của các  
doanh nghiệp niêm yết trên thị trường Việt  
Nam. Dựa trên các cơ sở lý thuyết nền tảng  
cũng như tham khảo và kế thừa kết quả của các  
nghiên cứu trước, nghiên cứu đã kiểm định  
thực nghiệm trong bối cảnh Việt Nam nhằm  
cung cấp cơ sở để các nhà quản trị có thể đưa  
ra những kiến nghị và điều chỉnh phù hợp với  
từng doanh nghiệp nhằm hoạt động hiệu quả  
hơn, đặc biệt là nhờ việc mở ra hướng giải  
quyết giảm thiểu tác động của thông tin bất cân  
xứng giữa doanh nghiệp, Nhà nước và các bên  
liên quan.  
Tính độc lập của HĐQT tác động ngược  
chiều đến quản trị lợi nhuận. Điều này phù hợp  
với kết quả các nghiên cứu trước đây (Peasnell  
và cộng sự, 2005) [19]. Khi tính độc lập của  
HĐQT tăng lên thì khả năng giám sát các kết quả  
hoạt động kinh doanh của nhà quản lý sẽ gia  
tăng. Do đó, nhà quản lý khó thực hiện “phù  
phép” số liệu báo cáo tài chính.  
Quy mô của doanh nghiệp (SIZE) có quan hệ  
thuận chiều AEM_JONES và AEM_KOTHARI.  
Điều này cũng đồng thuận với kết quả của Barton  
và Simko (2002), theo đó các doanh nghiệp lớn  
phải đối mặt với nhiều áp lực để đáp ứng được  
yêu cầu của các nhà phân tích [15].  
Đòn bẩy tài chính (LEV) có quan hệ thuận  
chiều với AEM_JONES và AEM_KOTHARI.  
Kết quả này đồng thuận với nghiên cứu của  
Waweru và Riro (2013), theo đó các nhà quản lý  
trong doanh nghiệp có đòn bẩy tài chính mạnh ở  
Kenya áp dụng quản trị lợi nhuận nhiều hơn các  
doanh nghiệp không có đòn bẩy [24].  
Tuy nhiên, nghiên cứu còn tồn tại hạn chế  
là mức độ giải thích mô hình còn thấp. Do vậy,  
để tăng mức độ giải thích cho mô hình, nghiên  
cứu tương lai nên bổ sung một số biến nghiên  
cứu phi tài chính có tác động đến quản trị lợi  
nhuận.  
Tài sản cố định hữu hình của doanh nghiệp  
(PPE) có quan hệ ngược chiều với AEM_JONES  
và AEM_KOTHARI. Điều này chỉ ra rằng  
nguyên giá tài sản cố định hữu hình càng lớn,  
doanh nghiệp càng ít sử dụng quản trị lợi nhuận.  
Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của  
Black và cộng sự (2006) [21].  
Tài liệu tham khảo  
[1] Alexander, N., “Factors affecting earnings  
management in the Indonesian Stock  
Exchange”, Journal of Finance and Banking  
Review, 2 (2017) 2, 8-14.  
[2] M.C. Jensen, W.H. Meckling, “Theory of the firm:  
Managerial behavior, agency costs and ownership  
structure”, Journal of Financial Economics 3  
(1976) 305-360.  
Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy ảnh  
hưởng của các biến độc lập tác động như thế nào  
đến các biến phụ thuộc được sử dụng để đo  
lường cho quản trị lợi nhuận của các doanh  
nghiệp niêm yết tại Việt Nam giai đoạn 2014-  
[3] Pratt, J. W., & Zeckhauser, R. J., “Principals and  
agents: An overview”. In J. W. Pratt & R. J.  
N.V. Khuong et al. / VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 42-50  
50  
Zeckhauser (Eds.), Principals and agents: The  
structure of business: 1-35, Boston: Harvard, 1991.  
[14] Watts, R. L., & Zimmerman, J. L., “The demand  
for and supply of accounting theories: The market  
for excuses”, Accounting Review (1979), 273-305.  
[4] Freeman, R. E., Strategic Management: A  
Stakeholder Approach, Pittman, Marshfield,  
MA, 1984.  
[15] J. Barton, P.J. Simko, “The balance sheet as an  
earnings  
management  
constraint”,  
The  
Accounting Review 77 (2002), 1-27.  
[5] R.D. Morris, “Signalling, agency theory and  
accounting policy choice”, Accounting and  
Business Research (2012), 47-56.  
[6] J. Jones, “Earnings management during import  
relief investigations”, Journal of Accounting  
Research 29(1991), 193-228.  
[16] Fama, E. F., & Jensen, M. C., “Separation of  
ownership and control”, The Journal of Law and  
Economics, 26 (1983) 2, 301-325.  
[17] Charfeddine, L., Riahi, R. and Omri, A., “The  
determinants of earnings management in  
developing countries: A study in the Tunisian  
[7] P.M. Dechow, R.G. Sloan, A.P. Sweeney,  
Detecting earnings management, The Accounting  
Review 70 (1995), 193-225.  
context”, IUP Journal of  
Governance, 12 (2013), 35-49.  
Corporate  
[18] B. Xie, W.N. Davidson, P.J. DaDalt, “Earnings  
management and corporate governance: The role  
of the board and the audit committee”, Journal  
of Corporate Finance 9 (2003), 295-316.  
[8] K. Schipper, “Earnings Managenment”,  
Accounting Horizons 3 (1989), 91-102.  
[9] T.A. Baker, T.J. Lopez, A.L. Reitenga, G.W. Ruch,  
“The influence of CEO and CFO power on  
accruals andrealearnings management”, Review of  
Quantitative Finance and Accounting 52 (2018),  
325-345.  
[19] Peasnell, K. V., Pope, P. F., & Young, S., “Board  
monitoring and earnings management: Do outside  
directors influence abnormal accruals?”, Journal of  
Business Finance & Accounting, 32 (2005) 7‐8,  
1311-1346.  
[10] N.N.A. Suryandari, A. Yuesti, I.M. Suryawan,  
“Fraud risk and earnings management”, Journal  
of Management Policies and Practices 7 (2019),  
43-51.  
[20] Iraya C., Mwangi M., Muchoki G., “The Effect of  
Corporate Governance Practices on Earnings  
Management of Companies Listed at the Nairobi  
Securities Exchange”, European Scientific  
Journal, 11 (2015) 1, 169-178.  
[11] D. Ngoc Hung, “Investigating the trends of  
earnings management following the change of  
corporate income tax rate - The case of listed  
firms in Vietnam Stock Exchange”, Journal of  
Economics and Development 219 (2015), 46-54  
(in Vietnamese).  
[21] B.S. Black, H. Jang, W. Kim, “Does corporate  
governance predict firms' market values?  
Evidence from Korea”, The Journal of Law,  
Economics, and Organization 22 (2006), 366-  
413.  
[12] Nguyen Cong Phuong, Nguyen Thi Uyen  
Phuong, “An investigation on earnings  
management of seasoned equity offerings by  
listed companies on Vietnam Stock Exchange”,  
Journal of Economic Studies 2 (2014), 91-101  
(in Vietnamese).  
[22] S.P. Kothari, A.J. Leone, C.E. Wasley,  
“Performance matched discretionary accrual  
measures”, Journal of Accounting and Economics  
39 (2005), 163-197.  
[23] Tabachnick, B. G., & Fidell, L. S., Using  
multivariate statistics. New York, NY: Harper  
Collins Publishers, 1996.  
[24] N.M. Waweru, G.K. Riro, “Corporate  
governance, firm characteristics and earnings  
management in an emerging economy”, Journal  
of Applied Management 11 (2013) 1, 43-64.  
[13] Tran Thi Hong Diem, “Factors affecting  
earnings quality of acquired listed firms on  
Vietnam stock market”, Master thesis,  
University of Economics Ho Chi Minh City,  
2020 (in Vietnamese).  
pdf 9 trang Thùy Anh 16/05/2022 1180
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của đặc điểm doanh nghiệp và hội đồng quản trị đến quản trị lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftac_dong_cua_dac_diem_doanh_nghiep_va_hoi_dong_quan_tri_den.pdf