Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới thanh khoản của các doanh nghiệp Logistics niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI THANH KHOẢN CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP LOGISTICS NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM
ThS. Nguyễn Thị Hƣờng
Khoa Kế toán Tài chính-Trƣờng Đại học Hải Phòng
TÓM TẮT:
Khả năng thanh toán là một trong những chỉ tiêu phản ánh năng lực và chất lượng tài
chính của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp không đảm bảo khả năng thanh toán, doanh
nghiệp sẽ đối mặt với rất nhiều nguy cơ đổ vỡ về tài chính. Bài viết nghiên cứu tác động của
các nhân tố đến thanh khoản của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics niêm yết
trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2016. Với mẫu nghiên cứu cuối
cùng là 46 doanh nghiệp, 6 nhân tố được đề xuất đưa vào mô hình bao gồm: lá chắn khấu hao,
đầu tư vốn lưu động, ROE, tỷ lệ nợ, tỷ lệ đầu tư vào tài sản cố định quy mô doanh nghiệp .
Với mô hình được gợi ý là mô hình tác động cố định (FEM) và kết quả nghiên cứu cho thấy,
chỉ có 4 nhân tố có tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp này đó là tỷ lệ nợ, lá
chắn khấu hao, tỷ lệ đầu tư tài sản cố định, suất sinh lợi vốn chủ sở hữu, còn lại quy mô doanh
nghiệp và tỷ lệ đầu tư vốn lưu động không có mối quan hệ tác động đến thanh khoản của các
doanh nghiệp logistics.
Từ khóa: thanh khoản, doanh nghiệp logistics, thị trường chứng khoán
STUDY ON FACTORS AFFECTINGH THE LIQUIDITY OF LOGISTICS
COMPANIES LISTED ON VIETNAM STOCK MARKET
Liquidity is one of the indicators reflecting the financial capacity and quality of the
business. If the enterprise fails to meet its liquidity requirements, the enterprise will face a lot
of financial risks. The paper examines the impact of factors on the liquidity of logistics firms
listed on Vietnam's stock market from 2007 to 2016. With the final sample of 46 firms, The six
factors proposed for inclusion in the model include: depreciation shield, working capital
investment, ROE, debt ratio, investment in fixed assets size. With the model suggested as a
fixed-effects model (FEM) and research results show that only four factors affect the liquidity
of these enterprises is the debt-to-discount ratio depreciation, fixed asset investment, equity
return, corporate size and working capital ratio have no relationship to the liquidity of
logistics enterprises.
Keywords: liquidity, logistics companies, stock market
1.
Đặt vấn đề
Khả năng thanh toán là khả năng đảm bảo trả được các khoản nợ đến hạn bất cứ lúc
nào, nó là kết quả của sự cân bằng giữa các luồng thu và chi hay giữa các nguồn vốn kinh tế
và nguồn lực sẵn có. Khả năng thanh toán thường được thể hiện dưới các tỷ số thanh toán
hiện hành, thanh toán nhanh, thanh toán tức thời, thanh toán dài hạn, thanh toán lãi vay, khả
năng chuyển đổi của tài sản ngắn hạn ra tiền…
Đối với các doanh nghiệp nói chung, khả năng thanh khoản là hết sức cần thiết. Khi
doanh nghiệp có khả năng thanh khoản tốt, doanh nghiệp sẽ có rất nhiều lợi thế trong thương
lượng mua hàng như được hưởng các chính sách tốt về chiết khấu, giảm giá hay trong công
tác vận chuyển mua hàng. Khi doanh nghiệp đối mặt với một số bất trắc trong công tác điều
hành, nếu doanh nghiệp có thanh khoản tốt thì việc giải quyết những bất trắc này cũng sẽ trở
nên dễ dàng hơn và từ đó có thể tránh được những đổ vỡ tài chính lớn hơn.
Trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, khả năng thanh khoản lại trở nên cần thiết
hơn bao giờ hết. Doanh nghiệp có khả năng thanh khoản vượt trội sẽ là một trong những cơ
hội giúp các doanh nghiệp đổi mới công nghệ từ đó nâng cao năng suất, cải thiện hiệu quả
kinh doanh tốt nhất.
Trong phạm vi bài nghiên cứu này, tác giả tập trung xem xét khả năng chuyển đổi ra
tiền của tài sản ngắn hạn đại điện cho tính thanh khoản của các doanh nghiệp logistics niêm
473
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Chỉ tiêu này được xác định bằng cách lấy tỷ lệ
giữa tiền và tài sản ngắn hạn. Chỉ tiêu này cho biết khả năng chuyển đổi của tài sản ngắn hạn
hiện có ra tiền của doanh nghiệp là cao hay thấp. Chỉ tiêu này càng cao, khả năng thanh khoản
của doanh nghiệp càng tốt và ngược lại.
2.
Nội dung
2.1
Một số nghiên cứu trƣớc đây về khả n ng thanh khoản
Opler và cộng sự (1997) đã thu thập dữ liệu của các công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán Mỹ trong giai đoạn 1971-1994 với tất cả 1048 công ty nhằm tìm kiếm các nhân
tố ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản. Nhóm tác giả đã đề xuất quy mô, tài sản có tính
lỏng/tài sản, rủi ro ngành, tỷ lệ chi phí nghiên cứu phát triển/doanh thu, giá trị thị trường/giá
trị sổ sách, tỷ lệ vốn lưu động/tài sản, chi phí vốn/tài sản, dòng tiền/ tài sản, đòn bảy, vấn đề
chi trả cổ tức, và mức độ tiếp cận vốn trên thị trường tài chính là các nhân tố có tác động đến
khả năng thanh khoản. Kết quả cho thấy chỉ số giá thị trường/giá sổ sách, chi phí nghiên cứu
và phát triển/doanh thu, tỷ lệ dòng tiền/tài sản, chi phí vốn/tài sản, rủi ro ngành có mối quan
hệ cùng chiều với khả năng thanh khoản. Trong khi đó quy mô công ty, đòn bảy, tỷ lệ vốn lưu
động ròng/tài sản, vấn đề chi trả cổ tức lại có mối tương quan ngược chiều với khả năng thanh
khoản. Một kết luận quan trọng trong nghiên cứu cũng được nhóm tác giả công bố đó là mức
tiếp cận vốn trên thị trường tài chính cũng có những ảnh hưởng rõ rệt đến khả năng thanh
khoản của doanh nghiệp. Cụ thể các công ty có khả năng tiếp cận thị trường vốn từ 5% trở lên
sẽ nắm giữ tiền mặt ít hơn các công ty có thể tiếp cận thị trường vốn ở mức dưới 5%. Vì vậy
chỉ số thanh khoản cũng sẽ biến động theo mức độ này.
Ozkan, A. and Ozkan, N (2002) thực hiện chọn mẫu là tập hợp tất cả các công ty công
bố thông tin trên cơ sở dữ liệu Datastream tại Anh từ năm 1984 đến năm 1999. Sau khi loại
trừ các công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính và những công ty không đầy đủ các thông
tin, thì mẫu nghiên cứu được lựa chọn là 1032 công ty với tất cả 12.988 quan sát. Kết quả của
nghiên cứu chỉ ra rằng hệ số dòng chảy tiền mặt, cơ hội tăng trưởng, kỳ hạn nợ có tác động
tích cực đến mức độ thanh khoản của doanh nghiệp. Còn quy mô, đòn bảy và các khoản nợ
ngân hàng thì có tác động ngược lại đến mức độ thanh khoản.
Ferreira và Vilela (2004) tiến hành loại trừ các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
tài chính và thu thập mẫu nghiên cứu từ năm 1987-2000 với các công ty ở các nước thuộc
EMU như Đức, Pháp, Hà Lan, Ý, Tây Ban Nha, Phần Lan, Bỉ, Áo, Ireland, Luxemburg, Hy
Lạp và Bồ Đào Nha với tổng số các quan sát là 6387 quan sát. Nhóm tác giả đã đề cập đến
các chỉ số giá thị trường trên giá trị sổ sách, vốn lưu động ròng trên tài sản, đòn bảy, quy mô
công ty, dòng tiền/tài sản, kỳ hạn nợ ngân hàng như là những biến độc lập trong mô hình
nghiên cứu. Ngoài ra nghiên cứu còn sử dụng một biến giả đánh giá tác động của các khoản
thanh toán cổ tức đến tính thanh khoản của công ty. Kết quả cho thấy cơ hội đầu tư, dòng tiền
có mối quan hệ tích cực tới khả năng thanh khoản, ngược lại đòn bảy, quy mô công ty, nợ
ngân hàng, mức độ phát triển của thị trường vốn lại có mối quan hệ ngược chiều.
Bruinshoofd và Kool (2004) đã sử dụng dữ liệu dạng bảng với 453 doanh nghiệp trong
giai đoạn 1986–1997, trong đó có 197 doanh nghiệp sản xuất và 182 doanh nghiệp thực hiện
kinh doanh dịch vụ để tiến hành nghiên cứu thực nghiệm về khả năng thanh khoản ngắn hạn
của các doanh nghiệp Hà Lan. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả có phân chia ra 4 nhóm
nhân tố ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của doanh nghiệp, đó là nhóm nhân tố thuộc về
cơ cấu tài sản (với các nhân tố cụ thể là quy mô tài sản, vốn lưu động ròng, các tài sản có tính
thanh khoản như tiền mặt, giá trị của các khoản đầu tư chứng khoán mà doanh nghiệp nắm
giữ ), nhóm nhân tố tiếp theo là nhóm nhân tố thuộc về cơ cấu nợ (với các nhân tố đặc trưng
là tổng nợ và nợ ngắn hạn), dòng chảy của vốn cũng là một trong những nhóm nhân tố được
coi là có ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của các doanh nghiệp Hà Lan (với các nhân tố cụ
thể được nghiên cứu như đầu tư, lợi nhuận trên tài sản, thu nhập không chắc chắn) và nhóm
nhân tố cuối cùng là chi phí cơ hội của việc nắm giữ thanh khoản và tỷ lệ lãi suất bình quân
đại diện cho nhóm nhân tố cuối cùng này. Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mô, các tài sản có
474
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
tính thanh khoản, tổng nợ, nợ ngắn hạn, lãi suất và thu nhập không chắc chắn là những yếu tố
quyết định đến tiềm năng của thanh khoản trong các doanh nghiệp được nhóm tác giả nghiên
cứu. Ngược lại các yếu tố về vốn lưu động, đầu tư và lợi nhuận trên tài sản lại có tác động
ngược chiều đến khả năng thanh khoản của công ty.
Isshaq và Bokpin (2009) thu thập dữ liệu hàng năm giai đoạn 1991–2007 tại Ghana để
đánh giá mối quan hệ giữa thanh khoản, quy mô, vốn lưu động, tỷ lệ đầu tư và lợi nhuận trên
tài sản. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp phân tích hồi quy để xem xét mối quan hệ giữa
tính thanh khoản với các yếu tố trên. Kết quả của nghiên cứu cho thấy quy mô, lợi nhuận trên
tài sản và vốn lưu động và tỷ lệ đầu tư có mối quan hệ cùng chiều với khả năng thanh khoản
của công ty
Chen và Mahajan (2010) sử dụng các dữ liệu đa quốc gia để nghiên cứu về tính thanh
khoản của các công ty thông qua việc tập hợp dữ liệu các công ty từ 45 quốc gia giai đoạn
1994– 2005. Nghiên cứu sử dụng hai mô hình ước lượng là mô hình tác động cố định và mô
hình phân tích động dữ liệu bảng bằng STATA 9. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã đưa
vào mô hình nghiên cứu tính thanh khoản của công ty hai nhóm nhân tố. Nhóm nhân tố thứ
nhất được gọi là nhóm các biến số kinh tế vĩ mô (tăng trưởng GDP, lạm phát, lãi suất và thâm
hụt ngân sách). Nhóm nhân tố thứ hai là nhóm các yếu tố thuộc về công ty như tổng tài sản,
đầu tư, dòng tiền trên tài sản, vốn lưu động ròng, chi phí vốn trên tài sản, đòn bảy, chi trả cổ
tức, tỷ lệ nợ. Nghiên cứu cho thấy dòng tiền, chi đầu tư, lãi suất thực, tăng trưởng GDP có tác
động tích cực tới tính thanh khoản của công ty trong khi vốn lưu động/ tài sản và tỷ lệ nợ, đòn
bảy, lạm phát có tác động ngược chiều với khả năng thanh khoản còn chi trả cổ tức và các
biến số còn lại không có ảnh hưởng đáng kể.
Gill và Mathur (2011) đã thực hiện mở rộng nghiên cứu của Isshad và Bokpin,
Bruinshoofd và Kool về tính thanh khoản. Ban đầu, nhóm tác giả đã lựa chọn khoảng 700 báo
cáo tài chính được công bố công khai trên thị trường chứng khoán Toronto, Canada từ
01/01/2008 đến 31/12/2010 để thu thập một mẫu ngẫu nhiên về các công ty sản xuất và dịch
vụ. Trong 700 báo cáo tài chính này thì nhóm tác giả chỉ sử dụng được 164 báo cáo tài chính.
Do đó mẫu nghiên cứu cuối cùng được triển khai là 164 công ty chuyên về sản xuất và dịch
vụ (91 công ty sản xuất và 73 công ty dịch vụ) với tất cả 492 quan sát. Trong nghiên cứu,
nhóm tác giả đã đề xuất quy mô công ty, vốn lưu động ròng, tỷ lệ nợ trên tài sản, tỷ lệ nợ
ngắn hạn trên tổng nợ, tỷ lệ đầu tư tài sản cố định hữu hình trên tổng tài sản, tỷ suất lợi nhuận
trên tài sản, lãi suất bình quân và mức độ quốc tế hóa của công ty làm các biến độc lập trong
mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của các doanh nghiệp
trên thị trường chứng khoán Toronto. Ngoài ra nhóm tác giả còn đưa vào 1 biến giả liên quan
đến yếu tố ngành trong mô hình nghiên cứu. Nhóm tác giả đã sử dụng mô hình hồi quy OLS
(Ordinary Least Square) để ước lượng các yếu tố này tới khả năng thanh khoản của mẫu
nghiên cứu. Kết quả cho thấy quy mô công ty, mức độ quốc tế hóa và yếu tố ngành có tác
động cùng chiều với khả năng thanh khoản, trong khi vốn lưu động ròng, tỷ lệ nợ ngắn hạn thì
lài có mối quan hệ ngược chiều, còn lại tỷ lệ nợ trên tài sản, tỷ lệ đầu tư tài sản cố định, tỷ
suất lợi nhuận trên tài sản, lãi suất bình quân lại không có tác động đến khả năng thanh khoản.
Sara Anjum và Quaisar Ali Malik (2013) đã tiến hành lựa chọn 395 công ty phi tài
chính của Pakistan được niêm yết trên thị trường chứng khoán Karachi cho giai đoạn 2005-
2011, bằng phương pháp phân tích hồi quy và ANOVA tìm các nhân tố ảnh hưởng tới tính
thanh khoản của các công ty phi tài chính này thông qua việc nắm giữa tiền mặt. Trong
nghiên cứu của mình, nhóm tác giả đã xem xét quy mô doanh nghiệp, vốn lưu động ròng, đòn
bảy, chu kỳ chuyển đổi tiền mặt, tăng trưởng doanh thu được coi là các biến độc lập. Kết quả
nghiên cứu đã chỉ ra quy mô doanh nghiệp, vốn lưu động ròng có mối quan hệ cùng chiều với
lượng tiền mặt nắm giữ, ngược lại đòn bảy, chu kỳ chuyển đổi tiền mặt và tăng trưởng doanh
thu lại có mối quan hệ ngược chiều.
Johanna Linnard (2013) “Determinants of corporate liquidity in Swedish listed firms-
The importance of Lines of credit” (Master thesis in corporate and financial Management-
475
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
Lund University School of Economics and Management) đã tập hợp số liệu trong giai đoạn
2007-2011 của 163 công ty niêm yết trên sàn Nasdaq OMX Stockholm để nghiên cứu các
nhân tố ảnh hưởng tới tính thanh khoản của các công ty niêm yết này. Nghiên cứu đã đề xuất
quy mô doanh nghiệp, tỷ số giá trị thị trường trên giá trị sổ sách (M/B), tỷ số vốn lưu động
ròng/tài sản, dòng tiền hoạt động, mức độ đầu tư, đòn bảy, chi phí cho nghiên cứu và phát
triển, Zscore, tỷ lệ nợ dài hạn, dòng tiền mặt, tính mùa vụ và dòng tín dụng như là các biến
độc lập. Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố M/B, quy mô doanh nghiệp, dòng tiền hoạt
động, tỷ lệ nợ dài hạn có tác động cùng chiều với tính thanh khoản của các công ty niêm yết
trong khi đó tỷ lệ vốn lưu động ròng, đòn bảy, chi phí nghiên cứu và phát triển lại có tác động
ngược chiều.
Nguyễn Đình Thiên, Nguyễn Thị Mai Trâm và Nguyễn Hồng Thu (2014) đã nghiên
cứu 620 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2007-2013
bằng phương pháp Forward Stepwise nhằm tìm ra các nhân tố tác động đến khả năng thanh
toán hiện thời. Trong nghiên cứu này đã chỉ ra 7 nhân tố: tỷ số P/B, tỷ số P/E, khả năng sinh
lợi của tài sản, tỷ số nợ, tỷ lệ lưu chuyển tiền thuần, tỷ lệ vốn lưu động và tăng trưởng tài sản
cố định, trong đó nhân tố tăng trưởng tài sản cố định không có mối quan hệ với khả năng
thanh toán còn nhân tố có tác động và giải thích khá tốt khả năng thanh toán của các doanh
nghiệp niêm yết là tỷ lệ vốn lưu động và tỷ số P/E, đặc biệt là nhân tố tỷ lệ vốn lưu động, nếu
tỷ lệ vốn lưu động tăng lên 1% thì sẽ làm cho khả năng thanh toán được cải thiện 4,28 lần.
2.2 Dữ liệu v phƣơng pháp nghiên cứu
* Dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng số liệu thứ cấp được lấy từ các báo cáo tài chính đã được kiểm
toán của các công ty hoạt động trong lĩnh vực logistics đang niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam (HoSE, HNX, UPCOM) trong giai đoạn 2007-2016 Như vậy, tính đến hết
năm 2016, trên thị trường chứng khoán Việt Nam có tất cả 57 công ty hoạt động trong lĩnh
vực logistics, tuy nhiên, nghiên cứu chỉ tập trung xem xét các công ty logistics niêm yết liên
tục từ năm 2007 đến năm 2016, do đó có 11 công ty không đảm bảo tiêu chí này (do niêm yết
sau năm 2007), vì vậy mẫu nghiên cứu chỉ còn lại 46 công ty với 460 quan sát.
* Phƣơng pháp nghiên cứu
Do dữ liệu trong nghiên cứu vừa mô tả theo thời gian lại vừa mô tả theo không gian
nên nghiên cứu sẽ sử dụng phương pháp hồi quy với dữ liệu bảng.
Để xem xét ảnh hưởng của các yếu tố kể cả bên trong lẫn bên ngoài tác động đến cấu
trúc vốn của các công ty hoạt động trong lĩnh vực logistics niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt nam, tác giả tiến hành ước lượng mô hình FEM (Fixed Effects Model).
Mô hình FEM là mô hình được phát triển từ mô hình Pooled OSL sau khi có thêm
kiểm soát được ảnh hưởng riêng biệt của từng doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu thông qua
việc phân tích mối tương quan giữa phần dư của mô hình với các biến giải thích.
Các chỉ tiêu tài chính cần thiết đưa vào mô hình được tính toán và tổng hợp theo từng
năm từ năm 2007 đến hết năm 2016. Một số các khuyết tật của mô hình như hiện tượng đa
cộng tuyến cũng đã được kiểm tra thông qua mức độ tương quan giữa các biến. Hiện tượng tự
tương quan cũng được nghiên cứu xem xét nhằm hướng tới một mô hình nghiên cứu có độ tin
cậy tốt nhất. Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng một số phương pháp khác để xử lý số liệu như
phương pháp số bình quân, và phương pháp tỷ số để tính giá trị các tỷ số tài chính phục vụ
cho mô hình nghiên cứu.
* Các biến nghiên cứu
Dựa trên nguồn số liệu hiện có và những gợi ý từ kết quả nghiên cứu của các tác giả
trên trên thế giới cũng như trong nước về vấn đề nghiên cứu, tác giả đã lựa chọn các biến phụ
thuộc và độc lập cụ thể như sau: mức độ thanh khoản sẽ được sử dụng như là một biến phụ
thuộc. Các nhân tố tác động là các biến độc lập được dự kiến đưa vào mô hình bao gồm: quy
mô doanh nghiệp, biến này đã được lựa chọn trong nghiên cứu của Opler và cộng sự (1999),
476
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
Ferreira và Vilela (2004), Bruinshoofd và Kool (2004), Isshaq và Bokpin (2009), Gill và
Mathur (2011), Chen và Mahajan (2010). Tỷ lệ đầu tư vốn lưu động cũng đã được Chen và
Mahajan (2010) lựa chọn với tư cách là một biến độc lập có ảnh hưởng đến tính thanh khoản
của doanh nghiệp, nghiên cứu cũng đã kế thừa chỉ tiêu này như là một biến độc lập trong mô
hình đánh giá tác động của các nhân tố tới khả năng thanh khoản của nhóm các doanh nghiệp
logistics niêm yết. Một trong những nhân tố được hầu hết các nghiên cứu tìm ra sự ảnh hưởng
đối với khả năng thanh khoản của doanh nghiệp, đó là tỷ lệ nợ như trong nghiên cứu của Chen
và Mahajan (2010), Gill và Mathur (2011), Nguyễn Đình Thiên và cộng sự (2014)…, cũng
được tác giả kế thừa và giới thiệu trong mô hình nghiên cứu này. Trong các nghiên cứu
trước, khả năng sinh lợi cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng tới năng lực thanh toán
của doanh nghiệp, có những nghiên cứu sử dụng tỷ suất sinh lợi ròng của tài sản (như trong
nghiên cứu của Bruinshoofd và Kool (2004), Isshaq và Bokpin (2009), Nguyễn Đình Thiên và
cộng sự (2014) hoặc sử dụng suất sinh lợi ròng của vốn chủ sở hữu, trong nghiên cứu này tác
giả sử dụng chỉ tiêu suất sinh lợi ròng của vốn chủ sở hữu. Ngoài ra nghiên cứu cũng đề xuất
biến tỷ lệ đầu tư vào tài sản cố định, lá chắn khấu hao như là những biến độc lập trong mô
hình, bởi lẽ với đa số các doanh nghiệp logistics niêm yết, tài sản cố định chiếm một tỷ lệ
tương đối lớn trong cơ cấu tài sản. Tất cả các biến này được trình bày tóm tắt trong bảng 1
sau:
Bảng 1: Các biến dự kiến trong mô hình phân tích
Biến
thankhoan Thanh khoản
Tlno Tỷ lệ nợ
Định nghĩa
Đơn vị
Lần
Cách tính
Tiền/Tài sản ngắn hạn
Tổng nợ/Tổng tài sản
Lần
Giá trị hao mòn lũy kế/Tổng tài
sản
Lachankh Lá chắn khấu hao
Lần
(TSNH-Nợ Ngắn hạn)/Tổng
Dtvld
roe
Đầu tư vốn lưu động
Lần
Lần
Lần
Tài sản
Suất sinh lợi vốn chủ sở hữu
Đầu tư tài sản cố định
LNST/VCSH
tltscd
TSCĐ/Tổng tài sản
Triệu
đồng
LnTS
Quy mô doanh nghiệp
Logarith của tổng tài sản
Mô hình hồi quy xem xét các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh
nghiệp logistics được đề xuất như sau:
thankhoan = β0 + β1*Tlno + β2*Lachankh + β3*Dtvld+ β4*ROE + β5*Tltscd +
β6*LnTS
3.
Kết quả hồi quy và thảo luận
Bộ dữ liệu dùng để chạy mô hình là dữ liệu bảng bao gồm 460 quan sát được chọn lọc
lại cho phù hợp với yêu cầu của mô hình hồi quy. Kết quả thống kê mô tả các biến được thể
hiện trong bảng sau
Bảng 2: Thống kê mô tả các biến trong mô hình
Jarque-
Mean Median Maximum Minimum Std.Dev Skewness Kurtosis Bera
Obs
460
460
460
460
460
thankhoan 0.311 0.297
Tlno 0.474 0.442
lachankh 0.361 0.216
0.844
2.686
0.004
0.041
0
0.205
0.294
1.010
0.256
0.418
1.892
2.327
22.086
11.477
1576.431
19.586
0.8069
3.412
16.202
-0.686
302.489 1657715
8.675 623.573
210.435 802149.8
Dtvld
roe
0.136 0.124
-0.07 0.115
-1.595
-42.784
2.9179 -14.354
477
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
Tltscd
LnTS
0.465 0.460
0.941
0.002
9.843
0.262
1.219
0.087
0.522
1.941
3.034
22.079
19.971
460
460
12.94 12.733 16.13
Nguồn: Chiết xuất từ phần mềm Eview8
Từ kết quả thống kê mô tả ở bảng 2, dựa vào hệ số bất đối xứng có thể thấy ngoại trừ
biến Dtvld (Đầu tư vốn lưu động) và ROE (tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu) thì phân bố dữ
liệu của các biến hầu hết đều lệch phải so với giá trị trung bình và không tuân theo quy luật
phân phối chuẩn. Bên cạnh đó, độ phân tán của một số biến là tương đối lớn như ROE,
lachankh (lá chắn khấu hao)… điều này cho thấy mức độ phân hóa tỷ suất sinh lợi ròng và lá
chắn khấu hao của các doanh nghiệp logistics niêm yết trên sàn là rất lớn.
Về mức độ thanh khoản của các doanh nghiệp logistics niêm yết trong giai đoạn
nghiên cứu về cơ bản ở mức độ thấp. Giá trị trung bình của 46 doanh nghiệp nghiên cứu ở
mức 0.311. Với giá trị này cho thấy khả năng chuyển đổi của tài sản ngắn hạn ra tiền của các
doanh nghiệp này tương đối thấp. Nhìn dưới góc độ dự trữ tiền để đáp ứng các nhu cầu thanh
toán, chi trả thì thấy phổ biến các doanh nghiệp logistics niêm yết khan hiếm tiền, thậm chí có
những doanh nghiệp dự trữ tiền gần như bằng 0 (như công ty vận tải xăng dầu vipco, công ty
vận tải biển Hải Âu, công ty đầu tư phát triển dịch vụ công trình 8…). Bên cạnh đó, thì cũng
có một số công ty có mức thanh khoản khá cao như công ty cổ phần cảng dịch vụ dầu khí
Đình Vũ, công ty cổ phần cảng Cát Lái, công ty cổ phần cảng Đồng Nai, công ty cổ phần vận
tải Dầu khí…
Bảng 3: Ma trận tƣơng quan giữa các biến trong mô hình
Thankhoa
n
LACHANK
H
TLNO
-0.165
1.000
DTVLD ROE
Tltscd
-0.013
-0.086
LNTS
0.038
0.308
Thankhoan
TLNO
1.000
-0.017
-0.006
0.093
0.055
-0.695
-0.115
LACHANK
H
1.000
-0.095
1.000
-0.043
0.182
1.000
-0.099
0.231
0.047
1.000
0.071
-0.194
0.039
-0.357
1.000
DTVLD
ROE
Tltscd
LNTS
Nguồn: Chiết xuất từ eview8
Mức độ tương quan của các biến trong mô hình là nhỏ, thậm chí là rất nhỏ, điển hình
như tương quan giữa biến tỷ lệ nợ (Tlno) với lá chắn khấu hao (Lachankh), hay lá chắn khấu
hao với biến ROE… Giá trị tương quan lớn nhất trong mô hình là 0,308 giữa tỷ lệ nợ (Tlno)
và quy mô kinh doanh (Lnts), tuy nhiên giá trị này vẫn chưa vượt quá 0,8 cho thấy không tồn
tại đa cộng tuyến giữa các biến độc lập trong mô hình nghiên cứu.
Nghiên cứu thực hiện tìm kiếm mô hình hồi quy với ràng buộc về chuỗi thời gian và
tính chất riêng của 46 doanh nghiệp. Với cấu trúc dữ liệu được thiết kế theo dạng bảng (Panel
Data), nghiên cứu sử dụng mô hình phổ biến là mô hình tác động cố định (Fixed Effects
Model –FEM) đã cho kết quả hồi quy như sau:
Bảng 4: Kết quả hồi quy theo FEM
Dependent Variable: THANKHOAN
Method: Panel Least Squares
Date: 11/01/17 Time: 18:34
Sample: 2007 2016
478
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
Periods included: 10
Cross-sections included: 46
Total panel (balanced) observations: 460
White diagonal standard errors & covariance (d.f. corrected)
Variable
Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.
0.936137 0.302500 3.094666 0.0021
C
TLNO
-0.141972 0.049923 -2.843792 0.0047
-0.008368 0.002651 -3.157002 0.0017
LACHANKH
DTVLD
ROE
TLTSCD
LNTS
0.005674
0.067135 0.084518 0.9327
-0.002886 0.000908 -3.177688 0.0016
-0.272398 0.079305 -3.434806 0.0007
-0.033179 0.023600 -1.405932 0.1605
Effects Specification
Cross-section fixed (dummy variables)
Period fixed (dummy variables)
R-squared
Adjusted R-squared 0.511850
S.E. of regression
Sum squared resid
Log likelihood
F-statistic
0.575661
Mean dependent var 0.311498
S.D. dependent var 0.205022
Akaike info criterion -0.925581
0.143244
8.187030
273.8836
9.021415
0.000000
Schwarz criterion
-0.377744
Hannan-Quinn criter. -0.709854
Durbin-Watson stat 1.579242
Prob(F-statistic)
Nguồn: Chiết xuất từ phần mềm eview8
Với kết quả của mô hình hồi quy theo FEM cho thấy các biến độc lập xem xét trong
mô hình giải thích được 57,57 % cho mức thanh khoản của các doanh nghiệp logistics niêm
yết trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2007-2016, còn lại 43,43% sự biến
động của tính thanh khoản có thể giải thích được bởi các yếu tố khách quan mà nghiên cứu
chưa đề cập đến. Bên cạnh đó để kiểm tra hiện tượng tự tương quan trong kinh tế lượng
thường dùng chỉ tiêu Durbin Watson, nếu chỉ tiêu này nằm trong khoảng (1,5-2,5) (Baltagi,
2005) thì mô hình hồi quy không xảy ra hiện tượng tự tương quan. Kết quả nghiên cứu cũng
cho thấy chỉ tiêu D-W nằm trong khoảng xác định, cụ thể là bằng 1,579 nghĩa là mô hình hồi
quy hoàn toàn không có hiện tượng tự tương quan.
Với mô hình không xuất hiện đa cộng tuyến, không có hiện tượng tự tương quan đồng
thời hầu hết các biến độc lập được đưa vào mô hình đều có mối tương quan khá chặt chẽ với
biến phụ thuộc là mức độ thanh khoản với mức ý nghĩa 1% , ngoại trừ hai biến đầu tư vốn lưu
động (Dtvld) và quy mô kinh doanh (Lnts) không có ý nghĩa thống kê. Do vậy, nghiên cứu sẽ
tiến hành loại bỏ các biến này ra khỏi mô hình và ước lượng lại mô hình với các biến còn lại
là tlno, lachankh, dtvld, ROE, tltscd với kết quả ước lượng thể hiện trong bảng 5 như sau:
Bảng 5: Kết quả ƣớc lƣợng với mô hình REM sau khi đã loại bỏ các biến không
cần thiết
Dependent Variable: THANKHOAN
Method: Panel Least Squares
479
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
Date: 11/01/17 Time: 18:39
Sample: 2007 2016
Periods included: 10
Cross-sections included: 46
Total panel (balanced) observations: 460
White diagonal standard errors & covariance (d.f. corrected)
Variable
Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.
C
0.516538 0.039065 13.22267 0.0000
TLNO
LACHANKH
ROE
-0.148731 0.046050 -3.229803 0.0013
-0.007812 0.002548 -3.066040 0.0023
-0.003360 0.000800 -4.202257 0.0000
-0.282863 0.067180 -4.210545 0.0000
TLTSCD
Effects Specification
Cross-section fixed (dummy variables)
Period fixed (dummy variables)
R-squared
Adjusted R-squared 0.511632
S.E. of regression
Sum squared resid
Log likelihood
F-statistic
0.576343
Mean dependent var
S.D. dependent var
Akaike info criterion
Schwarz criterion
Hannan-Quinn criter. -0.720176
Durbin-Watson stat 1.578041
0.311498
0.205022
-0.928829
-0.398955
0.143276
8.231748
272.6307
9.290768
0.000000
Prob(F-statistic)
Nguồn: Chiết xuất từ phần mềm eview8
Cuối cùng phương trình hồi quy có dạng: thankhoan = 0.517 - 0.149*Tlno -
0.008*Lachankh - 0.003*ROE - 0.283*Tltscd
Từ kết quả của mô hình hồi quy với hiệu ứng Fixed effect trên cho thấy tất cả các biến
tỷ lệ nợ (Tlno), lá chắn khấu hao (Lachankh), ROE và tỷ lệ đầu tư tài sản cố định (Tltscd) có
quan hệ tỷ lệ nghịch với mức thanh khoản của các doanh nghiệp logistics niêm yết trên sàn
giao dịch chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2007-2016. Cụ thể, khi hệ số nợ tăng lên 1% thì sẽ
làm cho khả năng thanh khoản của các doanh nghiệp logistics niêm yết giảm đi 0.149%. Kết
quả nghiên cứu về mối quan hệ giữa hệ số nợ với khả năng thanh khoản phù hợp với kỳ vọng
về dấu của tác giả và phù hợp với phần lớn nghiên cứu của các nhà nghiên cứu về các nhân tố
ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của doanh nghiệp như Chen và Mahajan (2010), Nguyễn
Đình Thiên và cộng sự (2014), Gill và Mathur (2011)… Từ bảng 2, bảng thống kê mô tả các
biến trong mô hình cho thấy, hệ số nợ bình quân của các doanh nghiệp logistics niêm yết
trong giai đoạn 2007-2016 là 0,47, điều này có nghĩa là để tài trợ cho 1 đồng tài sản, doanh
nghiệp phải dùng 0,47 đồng nợ, cho thấy về cơ bản doanh nghiệp logistics tài trợ các hoạt
động kinh doanh của mình có sự cân bằng tương đối giữa vốn vay và vốn của chính bản thân
mình. Và khi doanh nghiệp tăng sử dụng nợ thì đương nhiên sự cân bằng này sẽ bị phá vỡ,
điều này sẽ làm cho tính thanh khoản của doanh nghiệp giảm là điều dễ hiểu.
480
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
Lachankh(Lá chắn khấu hao) có ảnh hưởng ngược chiều với tính thanh khoản của các
doanh nghiệp logistics, cụ thể nếu lachankh của tăng 1% sẽ làm cho khả năng thanh khoản
giảm 0.008% và ngược lại. Với kết quả nghiên cứu này cho thấy việc sử dụng lá chắn khấu
hao trong các doanh nghiệp logistics niêm yết không phải để tăng cường các vấn đề thanh
khoản của họ. Họ sử dụng lá chắn khấu hao trong việc tiết kiệm thuế và dùng vốn từ lá chắn
khấu hao để tiếp tục đổi mới công nghệ và nâng cấp các loại tài sản cố định khác. Điều này là
hoàn toàn hợp lý, bởi lẽ cơ sở vật chất của các doanh nghiệp logistics của Việt Nam hiện nay
được đánh giá là khá lạc hậu so với các doanh nghiệp logistics có vốn FDI. Chính vì vậy,
khoảng 80% thị phần logistics Việt Nam đang rơi vào tay số nhỏ các doanh nghiệp có vốn
FDI. Để có thể giành lại thị phần thì việc đầu tư công nghệ và đổi mới tài sản cố định là hết
sức cần thiết, nhất là trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 như hiện nay.
Với số liệu nghiên cứu giai đoạn 2007-2016 của các doanh nghiệp logistics niêm yết,
tỷ suất sinh lợi có tỷ lệ nghịch với thanh khoản. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của
Bruinshoofd và Kool (2004, Nguyễn Đình Thiên, Nguyễn Thị Mai Trâm và Nguyễn Hồng
Thu (2014). Kết quả của mô hình nghiên cứu chỉ ra rằng, khi lợi nhuận ròng của vốn chủ sở
hữu tăng lên 1%, sẽ làm cho tính thanh khoản của các doanh nghiệp thuộc nhóm này giảm
0.003%. Mối tương quan này cho thấy kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong việc sử
dụng các nguồn lực (trong đó có vốn chủ sở hữu) là để mở rộng quy mô kinh doanh là chủ
yếu chứ không phải là để cải thiệnt vấn đề thanh khoản của doanh nghiệp. Điều này là hợp lý
vì trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, việc đầu tư vốn cho công nghệ sẽ giúp các doanh
nghiệp logistics của Việt Nam có thể đứng vững ngay tại chính thị trường của mình.
Cũng giống như các biến số khác trong mô hình thì tỷ lệ đầu tư vào tài sản cố định
cũng có mối quan hệ ngược chiều với thanh khoản. Kết quả của mô hình chỉ ra rằng, nếu các
doanh nghiệp logistics tăng đầu tư cho tài sản cố định lên 1% thì sẽ làm cho khả năng thanh
khoản của họ giảm 0.283% và ngược lại. Điều này là hoàn toàn hợp lý, bởi lẽ, khi doanh
nghiệp tăng cường đầu tư cho cơ sở vật chất thì lượng tiền dự trữ cũng sẽ giảm đi tương đối,
chính vì vậy nó sẽ ảnh hưởng tới tính thanh khoản. Đối với các doanh nghiệp logistics của
Việt Nam, máy móc, các thiết bị công nghệ phục vụ cho các hoạt động của nhóm các doanh
nghiệp khai thác cảng cũng như các doanh nghiệp vận tải nói chung, đặc biệt là vận tải biển
còn hạn chế, nên việc tăng cường đầu tư trong thời kỳ này là hết sức cần thiết. Chính vì vậy,
việc cân đối giữa thanh khoản với hoạt động đầu tư vào cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ
cũng là điều dễ hiểu.
3 Kết luận
Khả năng thanh khoản của doanh nghiệp là một trong những khía cạnh quan trọng để
đánh giá chất lượng tài chính và hiệu quả hoạt động. Và nó được coi là một trong những
thông tin hữu ích hàng đầu cho việc ra quyết định của các tổ chức tín dụng, nhà đầu tư đối với
doanh nghiệp. Khả năng thanh khoản của doanh nghiệp gặp khó khăn cũng sẽ kéo theo rất
nhiều rủi ro. Với trường hợp của các công ty logistics niêm yết, khi hoạt động kinh doanh gặp
khó khăn, việc đảm bảo khả năng thanh khoản là vô cùng cần thiết, nó giúp cho công ty có thể
đứng vững, tránh những đổ vỡ về mặt tài chính và có thể từng bước ổn định, tăng trưởng. Và
hơn hết, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thì vấn đề thanh khoản của nhóm
doanh nghiệp này lại càng trở nên quan trọng. Thanh khoản không chỉ giúp doanh nghiệp có
những lợi thế rõ ràng trong đàm phán kinh doanh, tránh được những rủi ro, đổ vỡ tài chính mà
còn giúp doanh nghiệp đổi mới công nghệ và từ đó đứng vững trong cạnh tranh.
Nghiên cứu đã cho thấy khả năng thanh toán của các doanh nghiệp thủy sản niêm yết
trong giai đoạn 2007-2015 bị ảnh hưởng nhiều nhất từ tỷ lệ nợ và tỷ lệ đầu tư vào tài sản cố
định trong số những yếu tố được đưa vào mô hình. Việc giảm bớt nợ vay trong điều kiện hiện
nay là cần thiết để có thể giảm bớt các chi phí tài chính đắt đỏ từ đó sẽ góp phần nâng cao tính
thanh khoản của doanh nghiệp logistics đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Trong ngắn hạn, đầu tư cho công nghệ và các loại tài sản cố định khác sẽ làm giảm
tính thanh khoản của doanh nghiệp, tuy nhiên trong dài hạn, sự phát huy của sức mạnh công
481
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
nghệ cũng như máy móc thiết bị tiên tiến sẽ làm cho hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
tốt hơn và từ đó sẽ góp phần cải thiện đáng kể tính thanh khoản.
Như vậy, có thể thấy tính thanh khoản với việc đổi mới công nghệ có mối quan hệ qua
lại lẫn nhau trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghệ 4.0
Khả năng thanh khoản của doanh nghiệp ngoài được biểu hiện qua chỉ tiêu khả năng
chuyển đổi của tài sản ngắn hạn thành tiền còn được thể hiện thông qua các chỉ tiêu khác như
khả năng thanh toán tổng quát, khả năng thanh toán hiện hành, khả năng thanh toán nhanh,
khả năng thanh toán lãi vay… Do vậy trong những nghiên cứu tiếp theo, biến phụ thuộc có
thể triển khai cho những chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán mà trong nghiên cứu này chưa
đề cập tới. Ngoài ra, các biến độc lập cũng có thể mở rộng thêm một số biến thuộc về các yếu
tố vĩ mô và một số yếu tố khách quan khác để tăng thêm khả năng giải thích cho biến phụ
thuộc.
STUDY ON FACTORS AFFECT SOLVENCY OF FISHERIES LISTED ON
THE STOCK MARKET VIETNAM
Summary: Solvency is one of the indicators reflecting the quality and capacity of
business finance. If business does not ensure solvency, businesses will face a lot of risk of
financial collapse. During the past business activities of enterprises in general fisheries and
aquaculture businesses listed on the stock market of Vietnam in particular face many
difficulties, and this also has a significant impact to solvency. The identification of factors
affecting the solvency of the group is necessary now so that suggest solutions to improve
billing.
Keywords: solvency, seafood business, stock market
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Baltagi B. (2005), “Econometric Analysis of Panel Data”
2. Bruinshoofd, W.A and Kool, C.J.M (2004), “Dutch corporate liquidity management: new
evidence on aggregation”, Journal of Applied Economics, 7(2), 195-230
3. Chen, N. and Mahajan, A. (2010), “Effects of Macroeconomic Condition on Corporate
Liquidity International Evidence”, International Reseach Journal of Finance and Econonics, Vol.35,
pp.112-129
4. Dittmar, A., Mahrt-Smith, J., Servaes, H., (2003), “International corporate governance
and corporate liquidity”, Journal of Financial and Quantitative Analysis 38, 111-133.
5. Ferreira, Miguel A. and Vilela, Antonio S.(2004), “Why do firm hold cash? Evidence from
EMU countries”, European Financial Management Vol. 10 No. 2 pp. 295-319
6. Isshaq, Z. and Bokpin, G.A. (2009), “Corporate liquidity management of listed firm in
Ghana”, Asia Pacific Joural of Business Administration, 1(2), 189-198
7. Gill, A. and Mathur, N. (2011), “Factors that influence corporate liquidity holdings in
Canada”, Journal of Applied Finance &Banking, Vol.1, No.2, 2011, 133-153
8. B. Holmstrom and J. Tirole, “Private and public supply of liquidity”, Journal of Political
Economy, 106(1), (1998), 1-40.
9. Ozkan, A. and Ozkan, N., „Corporate cash holdings: an empirical investigation of UK
companies‟, Working Paper (University of York, 2002)
10. Sara Anjum, Qaisar Ali Malik (2013), “Determinants of Corporate Liquidity – An
Analysis of Cash Holdings”, IOSR Journal of Business and Management, Vol.7, No.2, 2013, 94-100
11. T. Opler, L. Pinkowitz, R. Stulz and R. Williamson (1997), “The determinants and
implications of corporate cash holdings”, Journal of Financial Economics, 52(1), 3-46
12. Nguyễn Đình Thiên, Nguyễn Thị Trâm, Nguyễn Hồng Thu (2014), “Các yếu tố tác động
đến khả năng thanh khoản của doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam”, Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một,
số 6(19), 2014, 24-32
13. Nguyễn Ngọc Quang (2011), Phân tích báo cáo tài chính, NXB Tài chính
482
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới thanh khoản của các doanh nghiệp Logistics niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- nghien_cuu_cac_nhan_to_anh_huong_toi_thanh_khoan_cua_cac_doa.pdf