Quan điểm về tham nhũng trong các công ước quốc tế chống tham nhũng, so sánh với quy định của pháp luật Việt Nam

QUAN ĐIỂM VỀ THAM NHŨNG TRONG CÁC CÔNG ƯỚC...  
QUỐC TẾ CHỐNG THAM NHŨNG, SO SÁNH VỚI QUY ĐỊNH  
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM  
TRẦN THỊ NGỌC KIM*  
Hiện nay, để phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm tham nhũng, Việt  
Nam đã tham gia hai Công ước quốc tế là Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm  
xuyên quốc gia (CTOC) và Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC). Bài  
viết sẽ làm rõ quan điểm về tham nhũng theo quy định của 02 Công ước trên, kết hợp so sánh  
với các quy định của pháp luật Việt Nam để đưa ra quan điểm của tác giả về tham nhũng.  
Từ khóa: Tham nhũng, Công ước CTOC, Công ước UNCAC, Luật phòng, chống tham  
nhũng, Bộ luật hình sự.  
Ngày nhận bài: 23/9/2020; Biên tập xong: 24/9/2020; Duyệt đăng: 25/9/2020.  
In order to effectively prevent and fight against corruption crimes, Vietnam has  
acceded to two international anti-corruption conventions namely the United Nations  
Convention against Transnational Organized Crime (CTOC) and the United Nations  
Convention against Corruption (UNCAC). The article will clarify corruption’s views  
under the provisions of CTOC and UNCAC as well as compare with Vietnamese laws  
to provide the author’s opinion on corruption.  
Keywords: Corruption, CTOC, UNCAC, Anti-corruption Law, the Penal Code.  
1. Quan điểm về tham nhũng trong lĩnh vực tư1. Quy định này đã thể hiện  
các công ước quốc tế mà Việt Nam là được đầy đủ nhất về hành vi tham nhũng  
thành viên  
trong cả khu vực công và khu vực tư,  
được xem là phù hợp với một số nghiên  
cứu của các nhà khoa học trên thế giới về  
khái niệm tham nhũng.  
1.1. Quan điểm về tham nhũng theo  
Công ước của Liên hợp quốc về chống  
tham nhũng (UNCAC)  
Hành vi tham nhũng theo quy định  
của Công ước UNCAC đã thể hiện đầy đủ  
các dạng tham nhũng cũng như hình thái  
của tham nhũng nhưng nhìn chung, hành  
vi này đều được thực hiện dưới dạng lợi  
dụng hoặc lạm dụng chức vụ để làm hoặc  
không làm một việc trong quá trình thi  
hành công vụ. Ngoài ra, Công ước này  
cũng quy định hành vi đưa hối lộ và làm  
Có thể thấy, sự ra đời của Công ước  
UNCAC là rất cần thiết cho công cuộc  
đấu tranh chống tham nhũng của các  
quốc gia trên thế giới. Công ước UNCAC  
không đưa ra khái niệm cụ thể thế nào  
là tham nhũng, chỉ xác định các hành vi  
được coi là tham nhũng bao gồm: hối lộ,  
tham ô, biển thủ hoặc các dạng chiếm  
đoạt tài sản của công chức, lợi dụng ảnh  
hưởng để trục lợi; lạm dụng chức vụ; hối  
lộ trong lĩnh vực tư; biển thủ tài sản trong  
* Khoa Luật, Trường Đại học Đà Lạt  
1ꢀ Xem các điều từ Điều 15 đến Điều 22 của Công  
ước UNCAC.  
Số chuyên đề 03 - 2020  
Khoa học Kiểm sát 145  
QUAN ĐIỂM VỀ THAM NHŨNG TRONG CÁC CÔNG ƯỚC...  
giàu bất hợp pháp cũng là những hành vi vụ, nhiệm vụ nhằm đạt được một lợi ích  
không chính đáng cho bản thân hoặc cho  
người khác. Ngoài ra, hành vi làm giàu bất  
hợp pháp của công chức, hành vi đưa hối  
lộ cũng được xem là hành vi tham nhũng”.  
1.2. Quan điểm về tham nhũng của  
Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên  
tham nhũng. Nhóm hành vi tham nhũng  
theo quy định của Công ước này đã được  
mở rộng hơn so với các khái niệm tham  
nhũng trong nghiên cứu khoa học trên  
thế giới. Khi nghiên cứu các khái niệm đó,  
tác giả thấy rằng hầu hết các khái niệm  
về tham nhũng trên thế giới đều chỉ tập quốc gia (CTOC)  
trung trong nhóm hành vi lợi dụng hoặc  
lạm dụng chức vụ trong khi thi hành công  
vụ, rất ít nghiên cứu đề cập đến nhóm  
hành vi đưa hối lộ, làm giàu bất hợp pháp  
vào khái niệm tham nhũng.  
Công ước CTOC cũng không đưa ra  
định nghĩa thế nào là tham nhũng mà  
chỉ quy định nghĩa vụ tội phạm hóa các  
hành vi tham nhũng gồm hành vi đưa hối  
2
1
lộ và nhận hối lộ . Hành vi tham nhũng  
gắn liền với nhóm hành vi hối lộ trong  
khu vực công, không quy định về tham  
nhũng trong khu vực tư. Theo Công ước,  
biểu hiện của các hành vi này là nhận một  
mối lợi không chính đáng (có thể là lợi ích  
vật chất hoặc phi vật chất) của công chức  
nhà nước để làm một việc hoặc không làm  
một việc trong khi thực hiện công vụ của  
mình. Các hành vi này cũng được thực  
hiện với lỗi cố ý, mục đích là nhằm thu  
được một mối lợi không chính đáng cho  
bản thân hoặc người khác. Người thực  
hiện hành vi nhận hối lộ là viên chức nhà  
nước và bất kỳ ai trong hành vi đưa hối lộ.  
Như vậy, quy định về các hành vi tham  
nhũng của Công ước CTOC cần phải tội  
phạm hóa cũng có phần giống với các  
quan điểm trên thế giới và của Công ước  
UNCAC ở yếu tố lỗi, mục đích và người  
thực hiện hành vi tham nhũng (bao gồm  
cả người nhận và người đưa hối lộ). Tuy  
nhiên, dạng hành vi tham nhũng này  
trong Công ước CTOC chỉ giới hạn trong  
khu vực công, đây là điểm khác biệt so với  
quy định của Công ước UNCAC và một  
số quan điểm trên thế giới.  
Về yếu tố lỗi, quy định của Công ước  
UNCAC về các hành vi tham nhũng đều  
được thực hiện với lỗi cố ý. Về mục đích  
của hành vi tham nhũng, hầu hết các  
hành vi tham nhũng trong Công ước này  
đều vì mục đích nhận được một lợi ích  
không chính đáng cho bản thân hoặc cho  
bất kỳ ai. Lợi ích không chính đáng ở  
đây có thể là lợi ích vật chất hoặc lợi ích  
tinh thần. Còn về hành vi đưa hối lộ thì  
mục đích để người có chức vụ làm hoặc  
không làm một việc trong quá trình thi  
hành công vụ, nhiệm vụ.  
Người thực hiện các hành vi tham  
nhũng trong Công ước UNCAC là công  
chức hoặc bất kỳ ai. Trong các quan điểm  
tham nhũng trên thế giới, có ít quan điểm  
đề cập đến người thực hiện hành vi tham  
nhũng mà hầu hết chỉ tập trung ở dạng  
hành vi và mục đích thực hiện hành vi này.  
Như vậy, qua các phân tích trên, tác giả  
đưa ra khái niệm về tham nhũng theo quy  
định của Công ước UNCAC dựa trên các  
yếu tố về hành vi, lỗi, mục đích và người  
thực hiện hành vi đó như sau: “Tham  
nhũng là hành vi của công chức trong khu  
vực công hoặc người có chức vụ trong khu  
vực tư đã cố ý lợi dụng chức vụ để làm hoặc  
Qua các phân tích trên, có thể đưa ra  
khái niệm về tham nhũng theo CTOC như  
không làm một việc trong khi thi hành công 1ꢀ Xem Điều 8, Công ước CTOC.  
Số chuyên đề 03 - 2020  
146 Khoa học Kiểm sát  
TRẦN THỊ NGỌC KIM  
sau: “Hành vi tham nhũng bao gồm hành hóa ; Công ước CTOC cũng yêu cầu quốc  
3
1
gia thành viên hình sự hóa đối với các  
vi gợi ý, chấp nhận một cách trực tiếp hay  
gián tiếp một mối lợi không chính đáng  
của viên chức nhà nước hoặc hứa hẹn, đề  
nghị hay mang đến một cách trực tiếp hay  
gián tiếp một mối lợi không chính đáng  
cho người đó hoặc một thực thể khác để  
viên chức nhà nước đấy hành động hoặc  
không hành động trong khi thực hiện  
các phận sự chính thức của mình”. Quan  
điểm này nhằm khái quát các đặc điểm  
chung nhất của một dạng hành vi tham  
nhũng, từ đó đưa ra một khái niệm chung  
về các hành vi tham nhũng mà các quốc  
gia thành viên có nghĩa vụ phải tội phạm  
hóa trên cơ sở các quy định của Công ước  
CTOC. Quan điểm về tham nhũng này so  
với quan điểm tham nhũng mà tác giả đưa  
ra khi nghiên cứu về Công ước UNCAC  
được đánh giá là hẹp hơn vì nhóm hành  
vi được coi là tham nhũng tại Công ước  
CTOC có quy định đồng nhất hành vi  
tham nhũng là hành vi hối lộ giống như  
một số nghiên cứu trên thế giới. Đối chiếu  
với các quan điểm quốc tế về tham nhũng,  
hành vi tham nhũng theo quy định của  
Công ước CTOC cũng chỉ mới phản ánh  
được một phần của tham nhũng, chưa thể  
hiện được hết nội hàm của tham nhũng.  
hành vi tham nhũng theo quy định của  
4
2
Công ước . Thứ hai, cả hai Công ước này  
đều xây dựng những chỉ dẫn mang tính  
chuẩn mực cho các quốc gia thành viên  
trong việc hình sự hóa các hành vi tham  
nhũng. Việc quy định từng loại hành vi  
tham nhũng rõ ràng và cụ thể được xem  
là chuẩn mực quốc tế để giúp các quốc gia  
thành viên trong quá trình lập pháp của  
mình về tội phạm tham nhũng.  
2. Quan điểm về tham nhũng theo quy  
định của pháp luật Việt Nam, so sánh  
với quy định của các Công ước quốc tế  
về chống tham nhũng  
2.1. Quan điểm về tham nhũng theo  
Luật phòng, chống tham nhũng Việt Nam  
Khoản 1 Điều 3 Luật phòng, chống  
tham nhũng (PCTN) năm 2018 quy định:  
“Tham nhũng là hành vi của người có chức  
vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn  
đó vì vụ lợi”. Khái niệm tham nhũng này  
cũng giống như một số quan điểm về tham  
nhũng của quốc tế và trong các nghiên cứu  
khoa học tại Việt Nam, đó là hành vi lợi  
dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi cho bản  
thân. Luật PCTN năm 2018 quy định hành  
vi tham nhũng trong cả khu vực công và  
khu vực tư vì đã bổ sung thêm vào khái  
niệm những người có chức vụ, quyền hạn  
bao gồm cả những người giữ chức danh,  
chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ  
chức ngoài nhà nước. Quy định này đã  
mở rộng hơn về chủ thể của hành vi tham  
Tuy có sự khác biệt về nội dung, mức  
độ chi tiết của các quy định và đều không  
đưa ra định nghĩa thế nào là tham nhũng  
nhưng 2 Công ước nêu trên đều có những  
vấn đề chung nhất định liên quan đến  
hành vi được coi là tham nhũng. Thứ nhất, nhũng không chỉ là những người được giao  
nhiệm vụ bằng quyền lực nhà nước mà có  
thể được giao để thực hiện một nhiệm vụ  
các Công ước này đều phản ánh sự cần  
thiết của việc hình sự hóa các hành vi tham  
nhũng đối với pháp luật quốc gia. Công  
ước UNCAC quy định các quốc gia thành  
viên sẽ đảm bảo các hành vi tham nhũng  
3ꢀ Điều 15 đến Điều 28 của Công ước của Liên hiệp  
quốc về chống tham nhũng (UNCAC)  
4ꢀ Điều 8 của Công ước của Liên hiệp quốc về chống  
theo quy định của Công ước được hình sự tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (CTOC)  
Số chuyên đề 03 - 2020  
Khoa học Kiểm sát 147  
QUAN ĐIỂM VỀ THAM NHŨNG TRONG CÁC CÔNG ƯỚC...  
bất k, ví dụ như kế toán trong các công của Công ước, đó là đã ghi nhận các hành  
ty, doanh nghiệp ngoài nhà nước... Việc vi hối lộ bao gồm nhận hối lộ; đưa hối lộ,  
môi giới hối lộ; nhóm hành vi tham ô, biển  
thủ tài sản, lạm dụng chức năng, lợi dụng  
ảnh hưởng để trục lợi, cản trở hoạt động  
tư pháp. Tuy nhiên, hành vi làm giàu bất  
hợp pháp, chuyển đổi tài sản do phạm tội  
mà có; che giấu tài sản vẫn chưa được ghi  
nhận là hành vi tham nhũng trong Luật  
y. Bên cạnh đó, Luật PCTN năm 2018  
của Việt Nam còn quy định thêm một số  
hành vi được coi là tham nhũng như giả  
mạo trong công tác vì vụ lợi; nhũng nhiễu  
vì vụ lợi; không thực hiện, thực hiện  
không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm  
vụ, công vụ vì vụ lợi. Nhóm hành vi này  
tuy khác so với quy định của Công ước  
nhưng xét về bản chất cũng thuộc dạng  
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi.  
Các hành vi tham nhũng theo quy định  
của Luật PCTN năm 2018 của Việt Nam  
đã quy định hành vi tham nhũng trong cả  
khu vực công và khu vực tư.  
quy định hành vi tham nhũng là hành vi  
lợi dụng chức vụ, quyền hạn vì vụ lợi và  
tham nhũng cả trong khu vực công và khu  
vực tư cho thấy quy định về tham nhũng  
trong Luật PCTN năm 2018 đã cơ bản phù  
hợp với các quan điểm quốc tế hiện nay về  
tham nhũng, đáp ứng được yêu cầu của  
Công ước UNCAC và Công ước CTOC.  
So với quy định của Công ước CTOC,  
nhóm hành vi tham nhũng theo quy định  
của Luật PCTN năm 2018 rộng hơn và  
đa dạng hơn: Hành vi tham nhũng quy  
định trong cả khu vực công và khu vực  
tư. Trong khi đó, Công ước CTOC chỉ quy  
định tham nhũng trong khu vực tư và gồm  
các hành vi hối lộ (nhận hối lộ, đưa hối  
lộ, môi giới hối lộ). Ngoài ra, Luật PCTN  
năm 2018 đã thừa nhận hành vi đưa hối lộ  
và môi giới hối lộ là hành vi tham nhũng.  
Đây là điểm rất tiến bộ, phù hợp với các  
quan điểm về tham nhũng trên thế giới  
hiện nay và yêu cầu của Công ước CTOC.  
Đối với Công ước UNCAC, nhóm hành  
vi tham nhũng theo quy định của công  
ước bao gồm nhiều hành vi, phản ánh tất  
cả các dạng hành vi của tham nhũng, bao  
gồm: Hối lộ công chức quốc gia; hối lộ  
công chức nước ngoài và công chức của  
tổ chức quốc tế công; công chức tham ô,  
biển thủ hoặc các dạng chiếm đoạt tài sản  
khác; lợi dụng ảnh hưởng để trục lợi; lạm  
dụng chức vụ; làm giàu bất hợp pháp;  
hối lộ trong lĩnh vực tư; biển thủ tài sản  
trong lĩnh vực tư; chuyển đổi tài sản do  
Qua những phân tích ở trên, có thể  
rút ra một số đặc điểm của hành vi tham  
nhũng như sau:  
Thứ nhất, chủ thể của hành vi tham  
nhũng là người có chức vụ, quyền hạn.  
Những người này không chỉ giới hạn là  
những người làm việc trong các cơ quan, tổ  
chức, đơn vị trong hệ thống chính trị, nói  
cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị  
có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà  
nước mà còn cả những người giữ chức  
danh, chức vụ trong các doanh nghiệp, tổ  
chức ngoài nhà nước. Người có chức vụ,  
quyền hạn không chỉ trong khu vực công  
mà còn cả người có chức vụ, quyền hạn  
trong khu vực tư. Chủ thể của tham nhũng  
còn có người đưa hối lộ, môi giới hối lộ,  
nhưng phải là người có chức vụ, quyền  
hạn. Theo quy định của Công ước CTOC  
phạm tội mà có; che giấu tài sản; cản trở  
5
1
hoạt động tư pháp . So sánh với các quy  
định của Công ước, Luật PCTN năm 2018  
cũng thừa nhận các dạng hành vi tham  
nhũng cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu  
5 Các điều từ Điều 15 đến Điều 25 Công ước UNCAC và Công ước UNCAC, chủ thể của hành  
148 Khoa học Kiểm sát  
Số chuyên đề 03 - 2020  
TRẦN THỊ NGỌC KIM  
vi tham nhũng không chỉ là người có chức không xuất phát từ mục đích vụ lợi thì  
vụ, quyền hạn mà còn có thể là bất kỳ ai,  
bởi hành vi đưa hối lộ và hành vi lợi dụng  
ảnh hưởng đối với cơ quan hành chính  
hay một cơ quan công quyền của quốc gia  
thành viên của Công ước để trục lợi thì  
chủ thể của hành vi này không cần phải  
là người có chức vụ, quyền hạn. Có thể  
thấy, quy định của Luật PCTN năm 2018  
của Việt Nam cơ bản có những điểm tương  
đồng và khác biệt so với các Công ước trên  
về chủ thể của hành vi tham nhũng.  
hành vi đó không là hành vi tham nhũng.  
Vụ lợi là lợi ích vật chất (tiền, nhà, đất,  
các vật có giá trị...) hoặc lợi ích tinh thần  
mà người có chức vụ, quyền hạn mong  
muốn đạt được từ việc thực hiện hành vi  
lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình  
để thu vén lợi ích cho bản thân và cho  
gia đình hoặc bất kỳ ai. Quy định về mục  
đích vụ lợi được sử dụng trong các quan  
điểm quốc tế về tham nhũng, trong quy  
định của các công ước quốc tế về chống  
tham nhũng cũng như pháp luật của một  
số quốc gia và của Việt Nam.  
Thứ hai, hành vi chủ yếu của nhóm  
hành vi tham nhũng là hành vi sử dụng  
chức vụ, quyền hạn được giao. Chủ thể  
tham nhũng sử dụng “chức vụ, quyền hạn  
của mình” như một phương tiện để mang  
lại lợi ích cho cá nhân, gia đình hoặc cho  
người khác. Một người có chức vụ, quyền  
hạn thực hiện hành vi vi phạm pháp luật  
vì động cơ vụ lợi nhưng hành vi đó không  
sử dụng chức vụ, quyền hạn thì không coi  
là tham nhũng. Chức vụ, quyền hạn ở đây  
không có nghĩa phải là chức vụ quản lý,  
chỉ cần là người có thẩm quyền được giao  
để thực hiện công vụ và có quyền hạn  
để thực hiện công vụ đó, ví dụ như bác  
sĩ trong hội đồng giám định pháp y, giáo  
viên trong hội đồng chấm thi hoặc dân  
quân tự vệ trong việc đi tuần tra… Ngoài  
hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn,  
nhóm hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ,  
lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức  
vụ, quyền hạn để trục lợi cũng được xem  
là hành vi tham nhũng. Trong quy định  
của Công ước UNCAC, ngoài các hành  
vi trên, hành vi làm giàu bất hợp pháp là  
một trong những dạng của hành vi tham  
nhũng nhưng chưa được ghi nhận trong  
Luật PCTN năm 2018 của Việt Nam.  
2.2. Quan điểm về tham nhũng trong  
Bộ luật hình sự Việt Nam  
Bộ luật hình sự năm 2015 – sửa đổi,  
bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) chia  
nhóm tội phạm chức vụ ra hai nhóm là tội  
phạm tham nhũng và tội phạm về chức vụ.  
Định nghĩa về tội phạm chức vụ vẫn được  
giữ nguyên nhưng định nghĩa về người  
có chức vụ có sự thay đổi, bổ sung thêm  
cụm từ “nhiệm vụ” vào cuối định nghĩa  
6
1
về người có chức vụ . Việc bổ sung này  
cho thấy người có chức vụ ở đây không  
chỉ là người có chức vụ trong cơ quan, tổ  
chức Nhà nước mà còn là người có chức  
vụ trong các tổ chức kinh tế tư nhân. Quy  
định này đã bổ sung thêm hành vi phạm  
tội về tham nhũng và các tội phạm khác về  
chức vụ không chỉ ở trong khu vực công  
mà còn trong khu vực tư, đây được xem  
là quy định mới và tiến bộ của BLHS năm  
2015. Luật hình sự Việt Nam không có định  
nghĩa cụ thể về tội phạm tham nhũng mà  
các hành vi phạm tội về tham nhũng được  
liệt kê từ Điều 353 đến Điều 359 BLHS năm  
2015 gồm: Tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm  
dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài  
Thứ ba, mục đích của hành vi tham  
nhũng là vụ lợi. Nếu chủ thể thực hiện  
6ꢀ Điều 352, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ  
hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà sung năm 2017.  
Số chuyên đề 03 - 2020  
Khoa học Kiểm sát 149  
QUAN ĐIỂM VỀ THAM NHŨNG TRONG CÁC CÔNG ƯỚC...  
sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi điểm nào cho rằng tham nhũng còn có cả  
thi hành công vụ; lạm quyền trong khi thi  
hành công vụ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn  
gây ảnh hưởng đối với người khác để trục  
lợi; giả mạo trong công tác. Các hành vi  
tham nhũng này do người có chức vụ thực  
hiện trong khi thực hiện công vụ, nhiệm  
vụ và đã xâm phạm đến hoạt động bình  
thường, đúng đắn của cơ quan, tổ chức  
trong cả khu vực công và khu vực tư.  
hành vi đưa hối lộ và môi giới hối lộ nhưng  
về cơ bản, quan điểm về tham nhũng trong  
các nghiên cứu khoa học ở Việt Nam phù  
hợp với các quan điểm trên thế giới và các  
Công ước quốc tế về chống tham nhũng.  
Tóm lại, qua phân tích về các khái niệm  
tham nhũng trên thế giới và ở Việt Nam,  
tác giả rút ra khái niệm về tham nhũng như  
sau: “Tham nhũng là lợi dụng chức vụ,  
quyền hạn khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ  
đó để vụ lợi cá nhân hoặc làm giàu bất hợp  
pháp của công chức. Ngoài ra, hành vi tham  
nhũng còn là hành vi đưa hối lộ, môi giới  
hối lộ, lợi dụng ảnh hưởng đối với người có  
chức vụ, quyền hạn để người này làm hoặc  
không làm một việc khi thi hành công vụ,  
nhiệm vụ nhằm vụ lợi”./.  
Khái niệm về tội phạm chức vụ và  
quy định về nhóm tội phạm tham nhũng  
trong BLHS năm 2015 về cơ bản đã phù  
hợp với các quan điểm quốc tế về tham  
nhũng với yếu tố chủ thể, hành vi, lỗi,  
mục đích, được xem là hành vi sử dụng  
chức vụ để trục lợi cho bản thân hoặc cho  
người khác khi thực hiện công vụ, nhiệm  
vụ. So với khái niệm tham nhũng mà tác  
giả đưa ra tại hai Công ước CTOC, Công  
ước UNCAC, khái niệm tội phạm chức vụ  
của BLHS 2015 có sự khác biệt. Đối chiếu  
với Công ước CTOC, quy định về hành vi  
tham nhũng trong BLHS năm 2015 rộng  
hơn vì Công ước này chỉ đề cập đến hành  
vi nhóm hành vi hối lộ. Đối chiếu với Công  
ước UNCAC, khái niệm này vẫn còn một  
số điểm hạn chế hơn do một số hành vi  
chưa được BLHS năm 2015 xếp vào nhóm  
tội phạm tham nhũng, cũng như có một  
số hành vi chưa được tội phạm hóa trong  
BLHS năm 2015 như hành vi làm giàu bất  
hợp pháp.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Công ước của Liên hiệp quốc về chống  
tham nhũng (UNCAC);  
2. Công ước của Liên hiệp quốc về chống  
tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (CTOC);  
3. Luật Phòng, chống tham nhũng các năm  
2005, 2018;  
4. Bộ luật hình sự các năm 1985, 1999 (sửa  
đổi, bổ sung năm 2009), 2015 (sửa đổi, bổ sung  
năm 2017);  
5. Bộ luật dân sự các năm 2005, 2015;  
6. Nghị định số 59/2013/NĐ-CP quy định  
chi tiết một số điều của Luật phòng, chống tham  
nhũng;  
3. Kết luận  
Qua nghiên cứu các quan điểm về tham  
nhũng ở Việt Nam, tác giả nhận thấy các  
quan điểm cũng có những nét tương đồng  
với các quan điểm trên thế giới, quy định  
của Công ước UNCAC và Công ước CTOC.  
Theo đó, hành vi tham nhũng bao gồm cả  
trong khu vực công và khu vực tư; hành  
vi tham nhũng là hành vi lạm dụng chức,  
7. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình  
Luật hình sự Việt Nam, tập 2, NXB Công an Nhân  
dân, 2007;  
8. Viện khoa học thanh tra (Thanh tra  
Chính Phủ) (2011), Tài liệu bồi dưỡng về phòng,  
chống tham nhũng (Dành cho giáo viên các trường  
đại học, cao đẳng, trung cấp), NXB Chính trị Quốc  
quyền hạn để trục lợi. Tuy chưa có quan gia - Sự thật, Hà Nội.  
150 Khoa học Kiểm sát  
Số chuyên đề 03 - 2020  
pdf 6 trang Thùy Anh 5080
Bạn đang xem tài liệu "Quan điểm về tham nhũng trong các công ước quốc tế chống tham nhũng, so sánh với quy định của pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfquan_diem_ve_tham_nhung_trong_cac_cong_uoc_quoc_te_chong_tha.pdf