Bảo tồn tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa

46  
Lê Thị Thu Hiền  
BẢO TỒN TÍN NGƯỠNG CƯ DÂN VEN BIỂN ĐÀ NẴNG TRONG  
QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA  
PRESERVING THE BELIEFS OF DA NANG COASTAL RESIDENTS IN  
THE PROCESS OF URBANIZATION  
Lê Thị Thu Hiền  
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng; lethuhiendn@gmail.com  
Tóm tắt - Đô thị hóa là quá trình tất yếu trong tiến trình thực hiện công  
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước ở Việt Nam. Là một trong những  
địa phương có tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh và mạnh nhất trong cả  
nước, diện mạo thành phố Đà Nẵng đang không ngừng đổi mới, ké o  
theo sự chuyển biến của các giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có  
tín ngưỡng cư dân ven biển, được biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác  
nhau. Bài viết này tập trung vào công tác bảo tồn tín ngưỡng của cư  
dân ven biển Đà Nẵng, bao gồm cả những mặt đạt được và những tồn  
tại, hạn chế. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm giữ gìn, phát  
huy những giá trị văn hóa, tín ngưỡng đặc sắc của cư dân ven biển  
trong quá trình đô thị hóa ở Đà Nẵng hiện nay.  
Abstract  
-
Urbanization is the inevitable process of the  
implementation of industrialization - modernization of the country in  
Vietnam. As one of the local with the most rapid and powerful  
urbanization speed in the country, Danang’s appearance is constantly  
renewed, leading to the transformation of the traditional cultural values,  
including belief of coastal residents which is expressed in many  
different aspects. This article focuses on preserving the beliefs of  
Danang coastal residents, including all of the gains and existing  
drawbacks. Thereby the author proposes some measures for  
preserving and promoting the values of culture and beliefs of coastal  
residents in the process of urbanization in Danang nowadays.  
Từ khóa - Bảo tồn; Đà Nẵng; cư dân ven biển; đô thị hóa; tí n  
ngưỡng.  
Key words - Preserve; Danang; coastal residents; urbanization;  
belief.  
1. Đặt vấn đề  
thành phố đã mang lại các kết quả nhất định.  
Kể từ Nghị quyết số 33/NQ-TW ngày 16 tháng 10 năm  
Một là, trên cơ sở chủ trương, đường lối, chính sách,  
2003 của Bộ Chính trị “về xây dựng và phát triển thành phố chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của Đảng và  
Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất Nhà nước, chính quyền các cấp ở thành phố Đà Nẵng đã  
nước”, đến nay Đà Nẵng đã trở thành một trong những địa ban hành một số văn bản có nội dung đề cập đến công tác  
phương đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống thành phố Đà Nẵng.  
hoá; giữ vai trò là trung tâm công nghiệp - thương mại - du Trong đó có văn hóa, tín ngưỡng biển như: Văn kiện Đại  
lịch - dịch vụ và là thành phố cảng biển của khu vực miền hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XX và XXI [2],  
Trung. Theo đó là sự biến đổi trên mọi lĩnh vực của thành Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội quận Ngũ  
phố, trong đó có văn hóa, tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Hành Sơn đến năm 2020 [4], Quy hoạch tổng thể phát triển  
Nẵng ở cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực, đòi hỏi phải có kinh tế - xã hội quận Sơn Trà đến năm 2020 [9]... Dù chưa  
sự quan tâm, can thiệp kịp thời của các cấp chính quyền có chính sách bảo tồn cụ thể và đi vào trực tiếp lĩnh vực tín  
nhằm lưu giữ, bảo tồn theo hướng phát triển bền vững.  
ngưỡng cư dân ven biển, tuy nhiên, những chủ trương,  
chính sách liên quan đến văn hóa truyền thống Đà Nẵng  
cũng góp phần vào việc giữ gìn, lưu truyền những giá trị  
tín ngưỡng của cộng đồng dân cư ven biển nơi đây.  
Trên thực tế, trong khoảng 5 năm trở lại đây, công tác  
bảo tồn và phát huy văn hóa, tín ngưỡng cổ truyền của cư  
dân ven biển Đà Nẵng ngày càng được chính quyền thành  
phố cũng như người dân quan tâm, chung tay góp sức. Song  
Hai là, trong khoảng 5 năm trở lại đây, chính quyền  
cùng với những kết quả đạt được, công tác bảo tồn và phát thành phố Đà Nẵng và chính quyền các cấp đã có nhiều động  
huy giá trị văn hóa, tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng thái tích cực hơn. Một số đề án bảo tồn văn hóa, trong đó có  
vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém, cần thiết phải có văn hóa biển đã được xây dựng và triển khai, như: Đề án  
các giải pháp để khắc phục.  
“Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa thành phố Đà  
Nẵng, giai đoạn 2013 - 2015”, Đề án “Bảo tồn và phát huy  
giá trị di sản văn hóa thành phố Đà Nẵng, giai đoạn 2016 -  
2020” [6], Kế hoạch “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản nghệ  
thuật Bài chòi tại thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 - 2020”  
[5], Kế hoạch “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi  
vật thể Lễ hội Cầu ngư thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 -  
2020” [7], Đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vùng  
biển quận Sơn Trà đến năm 2010 và những năm tiếp theo”  
[1], Đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn  
hóa trên địa bàn quận Liên Chiểu giai đoạn 2015 - 2020”  
[3]… Nhờ vậy, những di tích tín ngưỡng quan trọng ở các  
làng ven biển Đà Nẵng như đình làng, lăng Ông được thành  
phố và quận đầu tư kinh phí xây dựng lại hoặc sửa chữa, tu  
bổ, gia cố. Góp phần phục hồi, củng cố một số sinh hoạt văn  
2. Công tác bảo tồn tín ngưỡng truyền thống của cư dân  
ven biển Đà Nẵng hiện nay  
2.1. Những kết quả đạt được  
Sau khi bị xếp hạng gần áp chót, 61/63 tỉnh thành về  
mức độ đầu tư cho ngành văn hóa và xếp thứ 39 về lĩnh vực  
phát triển văn hoá trong các tỉnh, thành trên cả nước [8],  
chính quyền thành phố Đà Nẵng đã có những quyết sách  
thay đổi khá mạnh mẽ. Bên cạnh việc tăng cường ngân sách  
đầu tư cho lĩnh vực văn hóa, thành phố đã ban hành nhiều  
chủ trương, chính sách, cũng như có nhiều hoạt động thiết  
thực nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, tín  
ngưỡng truyền thống, bao hàm cả tín ngưỡng cư dân ven  
biển Đà Nẵng. Những nỗ lực của chính quyền và người dân  
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 8(129).2018  
47  
hóa dân gian của cư dân ven biển như các trò chơi dân gian,  
Năm là, sinh hoạt tín ngưỡng vẫn tiếp tục được duy trì  
các diễn xướng dân gian thông qua việc nâng cấp quy mô lễ và một số lễ hội có sự đầu tư nên quy mô lớn hơn. Từ chủ  
hội Cầu ngư, tổ chức hội thi hát dân ca miền biển...  
trương phát triển Đà Nẵng thành một trung tâm kinh tế  
biển, Nhà nước và chính quyền đã có sự đầu tư cho ngư  
nghiệp và ngư dân, nâng cao đời sống kinh tế, nhờ đó ngư  
dân có kinh phí hỗ trợ cho các hoạt động tín ngưỡng của  
làng. Quan trọng hơn, người dân vẫn luôn giữ ý thức về sự  
hiện hữu của một cộng đồng làng biển trước kia và luôn  
ghi nhớ công ơn những người đã có công tạo dựng, phát  
triển cộng đồng đó thông qua việc thờ phụng tín ngưỡn.g.  
Vì vậy, trông nom, giữ gìn tín ngưỡng cộng đồng, thực hiện  
cúng bái thường xuyên là nghĩa vụ và là trách nhiệm của  
mỗi người dân làng biển Đà Nẵng.  
Ba là, công tác bảo tồn tín ngưỡng cư dân ven biển đã có  
sự chung tay của cả cộng đồng, nhất là dân cư sở tại. Họ là  
những người tự nguyện hằng ngày đứng ra trông nom, bảo  
vệ di tích tín ngưỡng; họ là những người tổ chức và thực  
hành nghi thức truyền thống trong các buổi lễ; họ đồng thời  
cũng là những người đóng góp kinh phí chủ yếu để sửa chữa,  
trùng tu, tái thiết các cơ sở thờ tự tín ngưỡng cũng như mua  
sắm đồ lễ để cúng kiếng, hội lễ. Tiếng nói của họ cũng có  
khả năng gây áp lực lên quyết định của chính quyền trong  
những trường hợp tín ngưỡng cộng đồng có nguy cơ bị xâm  
hại. Nói cách khác, dân cư sở tại chính là lực lượng mấu chốt  
Sáu là, một số giá trị của tín ngưỡng, văn hóa biển bước  
quyết định sự tồn tại hay tiêu vong của tín ngưỡng trước đầu được đưa vào khai thác, phục vụ cho phát triển du lịch của  
những tác động của chính trị hay đời sống kinh tế - xã hội thành phố. Một trong những mũi nhọn của kinh tế Đà Nẵng  
trong tiến trình đô thị hóa mạnh mẽ tại Đà Nẵng.  
trong thời gian gần đây là đẩy mạnh phát triển ngành dịch vụ,  
du lịch biển. Và trong sự phát triển vượt bậc của du lịch biển  
Đà Nẵng, có sự đóng góp không nhỏ của các sản phẩm du lịch  
được xây dựng từ các giá trị văn hóa biển, trong đó có tín  
ngưỡng, lễ hội của cư dân ven biển. Ví như Chương trình du  
lịch “Đà Nẵng - Điểm hẹn mùa hè” do Sở Văn hóa, Thể thao  
và Du lịch Đà Nẵng (hiện nay là Sở Du lịch Đà Nẵng) tổ chức,  
bắt đầu vào năm 2010 và được tổ chức thường niên tại các  
điểm du lịch nổi tiếng trong thành phố, chủ yếu tại các bãi  
biển. Qua 8 năm tổ chức, ngành du lịch thành phố đã ngày  
càng chú ý đến việc khai thác các yếu tố trong văn hóa lao  
động sản xuất, văn hóa sinh hoạt hàng ngày của cư dân ven  
biển Đà Nẵng. Đặc biệt, năm 2017, một chương trình mới  
được đưa vào “Đà Nẵng - Điểm hẹn mùa hè”, đó là chương  
trình Ngày hội miền biển đã tái hiện những hoạt động của ngư  
dân Đà Nẵng với các hoạt động hấp dẫn như thi ngoáy thúng,  
kéo co, đan lưới, gánh cá tiếp sức cùng với các trò chơi trên  
bãi biển (Lấp đầy biển Đông, Chèo thuyền tránh biển, Khiêu  
vũ cùng tiếng sóng, Lặn tìm ngọc trai…).  
Bốn là, dựa vào sự hỗ trợ từ nhiều nguồn khác nhau, một  
số di tích tín ngưỡng cộng đồng ở làng ven biển Đà Nẵng đã  
được tu sửa, tôn tạo hoặc xây mới nhằm đáp ứng nhu cầu tâm  
linh của người dân, thu hút khách du lịch tham quan. Năm  
2017, quận Sơn Trà đã đầu tư trùng tu, tôn tạo, sửa chữa lại  
đình làng An Hải (phường An Hải Tây) với tổng kinh phí hơn  
600 triệu đồng. Còn ở phường Phước Mỹ, đình làng Mỹ Khê  
đã được gia cố và phục hồi các hạng mục xuống cấp, gồm mái  
đình, cột kèo, quét vôi tường, lát gạch nền, phục hồi các họa  
tiết hoa văn, tổng kinh phí gần 2,1 tỷ đồng. Cũng trong năm  
này, quận Liên Chiểu đã tiến hành trùng tu lăng ông Kim Liên  
(phường Hoà Hiệp Bắc) với kinh phí 1,2 tỷ đồng và quận  
Thanh Khê đã tu bổ, phục hồi di tích đình làng Thanh Khê từ  
kinh phí trên 2 tỷ đồng lấy từ nguồn ngân sách của thành phố.  
Mặt khác, có những di tích được tu bổ lại dựa trên nguồn kinh  
phí của quận và người dân, như di tích lịch sử đình làng Mân  
Quang thuộc phường Thọ Quang được tôn tạo, sửa chữa các  
bộ phận bị xuống cấp trong năm 2017 với tổng kinh phí là 120  
triệu đồng, trong đó, hội viên Hội liên hiệp phụ nữ quận Sơn  
Cùng với chương trình “Đà Nẵng - Điểm hẹn mùa hè”  
Trà đóng góp 40 triệu đồng, UBND quận hỗ trợ 80 triệu đồng. đang dần mang dấu ấn riêng của thành phố nơi “cuối sông đầu  
Đầu tư xây mới hoàn toàn một số cơ sở thờ tự như Nhà thờ biển”, một giá trị văn hóa tinh thần đặc sắc khác củacộng đồng  
tiền hiền làng An Hải và lăng Thoại Ngọc Hầu vào năm 2009 dân biển Đà Nẵng cũng được chính quyền các quận ven biển  
với kinh phí gần 7 tỷ đồng. Năm 2018, Sở Văn hóa và Thể như Thanh Khê, Sơn Trà phát huy bằng hình thức gắn với phát  
thao thành phố tiếp tục đầu tư xây dựng Nhà truyền thống triển du lịch, tạo điểm nhấn cho du lịch địa phương. Đó chính  
Nghề cá làng An Hải Tây với tổng mức đầu tư được phê duyệt là lễ hội Cầu ngư. Lễ hội Cầu ngư lần đầu tiên được nâng lên  
gần 3 tỷ đồng từ ngân sách của thành phố.  
quy mô cấp quận vào năm 2007 tại quận Thanh Khê và năm  
2016 tại quận Sơn Trà, luân phiên nhau giữa các làng ven biển  
từ 3 - 5 ngày (ở quận Thanh Khê là làng Thanh Khê Tây, làng  
Thanh Khê Đông và làng Xuân Hà; ở quận Sơn Trà là làng  
Tân Thái và làng Nam Thọ). Vì được thêm sự hỗ trợ kinh phí  
từ quận và nguồn thu từ xã hội hóa, phần hội trong lễ hội Cầu  
ngư được tổ chức lớn hơn với nhiều trò chơi (ở quận Thanh  
Khê thi bóng đá bãi biển, thi kéo co, ngoáy thúng, thi làm gỏi  
cá, hát bài chòi, đẩy gậy, đan lưới, vật tay; ở quận Sơn Trà thi  
kéo co dưới nước, bóng chuyền bãi biển, gánh cá, đan lưới,  
lắc thúng, đua thuyền, bơi lội, đá bóng) và các sinh hoạt văn  
hóa nghệ thuật (như hát bài chòi, hát bội, hát hò khoan). Các  
quận cũng bố trí một số gian hàng giới thiệu và bán các sản  
phẩm hải sản do ngư dân địa phương làm ra như cá khô, nước  
mắm, mực khô, tôm khô, ruốc… Lễ hội Cầu ngư quận Thanh  
Khê và Sơn Trà đã góp phần khôi phục một số trò chơi, diễn  
xướng dân gian miền biển Đà Nẵng đang có nguy cơ bị mai  
Hình 1. Đình làng Thanh Khê  
Quy hoạch đô thị với việc hình thành nên hệ thống đường  
sá dọc ngang, thông thoáng, vô hình chung đã đưa một số cơ  
sở thờ tự ra các trục đường chính và phần nào tạo điều kiện  
cho người dân cũng như du khách tiếp cận với tín ngưỡng,  
lễ hội của cư dân ven biển được dễ dàng hơn.  
48  
Lê Thị Thu Hiền  
một, giữ gìn bản sắc dân tộc của địa phương.  
nhập của lao động nghề biển thấp, bấp bênh do phụ thuộc rất  
lớn vào mùa vụ và thời tiết, môi trường lao động biển khắc  
nghiệt, thường xuyên phải xa gia đình dẫn đến xu hướng lao  
động biển chuyển sang làm các nghề phổ thông trên bờ.  
Dù chưa đạt được hiệu quả tốt nhất, song văn hóa, tín  
ngưỡng cư dân ven biển đã góp phần tạo điểm nhấn, dấu  
ấn cho những sự kiện du lịch nổi tiếng của thành phố như  
“Đà Nẵng - Điểm hẹn mùa hè” hay Lễ hội Cầu ngư quận  
Thanh Khê, quận Sơn Trà.  
Bên cạnh sự bấp bênh của nghề biển, sự phát triển du  
lịch biển đã tạo cơ hội việc làm cho dân ven biển sang lĩnh  
vực dịch vụ du lịch, chưa kể quy hoạch lại cơ sở hạ tầng  
ven biển, sự hình thành các khu du lịch ven biển… đã di  
dời một số lượng lớn ngư dân đến nơi khác sinh sống và  
buộc phải bỏ nghề biển, như làng Nam Ô, Mỹ Khê, Tân  
Lưu. Một khi dân biển - chủ thể của tín ngưỡng suy giảm  
thì tất yếu sẽ kéo theo sự suy yếu của các hình thái tín  
ngưỡng cộng đồng ở các làng ven biển Đà Nẵng, đồng thời  
đưa đến những khó khăn trong vấn đề duy trì thờ cúng, huy  
động kinh phí sửa chữa,…  
Ba là, đầu tư cho văn hóa của thành phố Đà Nẵng tuy  
có tăng trong những năm gần đây nhưng vẫn chưa tương  
xứng với phát triển kinh tế. Dù ngân sách đầu tư cho văn  
hóa có tăng những chưa cao, chủ yếu tập trung xây dựng  
các thiết chế văn hóa mang tính hiện đại, chưa đầu tư mạnh  
và đầu tư thường niên cho văn hóa, tín ngưỡng truyền  
thống, đặc biệt là văn hóa, tín ngưỡng biển. Mặt khác,  
chính quyền các cấp và sở ban ngành còn chậm trễ trong  
khâu xét duyệt kinh phí đầu tư sửa chữa di tích tín ngưỡng  
đã xuống cấp ở các làng biển. Công tác kiểm kê, kiểm tra  
hiện trạng di tích tín ngưỡng tại các làng không được tiến  
hành thường xuyên theo định kỳ. Việc tư liệu hóa, số hóa,  
ghi âm, quay phim các giá trị văn hóa phi vật thể của cư  
dân ven biển Đà Nẵng, trong đó có tín ngưỡng, chưa được  
thực hiện đầy đủ để lưu giữ.  
Hình 2. Hát bả trạo trong Lễ hội Cầu ngư quận Thanh Khê  
2.2. Những mặt tồn tại, hạn chế  
Snỗ lựccachínhquyền và ngườidânthànhphố ĐàNẵng  
trong những năm gần đây đối với việc bảo tồn và phát huy giá  
trị văn hóa, tín ngưỡng cư dân ven biển là đáng ghi nhận, trân  
trọng. Tuy nhiên, mới chỉ là những kết quả khả quan ban đầu,  
trên thực tế vấn đề này vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau:  
Một là, nội dung các nghị quyết Đại hội Đảng của thành  
phố và các quận ven biển Đà Nẵng cho thấy, bảo tồn và  
phát triển văn hóa truyền thống, trong đó có văn hóa, tín  
ngưỡng cư dân ven biển hầu như ít được đặt ra trong nội  
dung các kỳ Đại hội và đưa vào nghị quyết. Nếu có thì cũng  
rất sơ lược, khái quát, không cụ thể. Ngay cả chủ trương,  
chính sách của các Sở ban ngành có liên quan như Sở Văn  
hóa - Thể thao Đà Nẵng, Sở Du lịch Đà Nẵng, Trung tâm  
Bảo tồn Di tích Văn hóa Đà Nẵng… cũng chưa quan tâm  
nhiều đến lưu giữ, phát huy giá trị văn hóa, tín ngưỡng của  
cư dân ven biển Đà Nẵng. Thiếu sự định hướng rõ ràng, cụ  
thể từ phía chính quyền địa phương các cấp đã dẫn đến sự  
lúng túng, chậm trễ trong quá trình triển khai, thực hiện và  
giải quyết những vấn đề phát sinh trong công tác bảo tồn  
tín ngưỡng, lễ hội của cư dân ven biển Đà Nẵng.  
Bốn là, trong công tác quy hoạch kinh tế - xã hội - văn  
hóa những năm qua của thành phố cũng như các quận ven  
biển, chính quyền vẫn chưa chú ý đến việc bảo tồn không  
gian làng biển cổ - không gian thực hành văn hóa tín  
ngưỡng cổ truyền của cư dân ven biển. Vì vậy, hầu hết các  
làng biển xưa ở Đà Nẵng như làng Nam Ô, Mỹ Khê, Mỹ  
Thị, Tân Lưu... đều đã và đang đứng trước nguy cơ bị biến  
mất, mà trước mắt là sự biến mất về không gian cư trú,  
không gian sinh hoạt, tiếp đó sẽ là không gian sản xuất và  
các hình thái văn hóa, tín ngưỡng truyền thống. Nói cách  
khác, thành phố chưa coi văn hóa biển truyền thống và kinh  
nghiệm đi biển được truyền đời của ngư dân Đà Nẵng là di  
sản cần được lưu giữ và phát huy trong chính môi trường  
đã sản sinh, gìn giữ và trao truyền nó.  
Hai là, chính quyền thành phố đã chú ý đến việc hỗ trợ  
ngư dân, khuyến khích người dân bám biển nhưng chưa hiệu  
quả. Hiện nay, cơ cấu tàu thuyền khai thác của thành phố  
chủ yếu là tàu công suất nhỏ, đánh bắt gần bờ dễ làm cạn  
kiệt nguồn tài nguyên, mất cân bằng hệ sinh thái thủy sinh.  
Hệ thống bến, cảng cá, cơ sở hạ tầng nghề cá, dịch vụ hậu  
cần còn khiêm tốn. Dịch vụ hậu cần trực tiếp trên biển mới  
triển khai bước đầu, chưa xây dựng được đội tàu hậu cần  
chuyên phục vụ cho các tàu khai thác ở vùng biển xa. Việc  
ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa trong đánh bắt  
hải sản còn hạn chế; máy móc, thiết bị phục vụ khai thác,  
bảo quản sản phẩm còn lạc hậu nên chất lượng sản phẩm  
không ổn định và không đồng đều. Phần lớn ngư dân là lao  
động phổ thông, chưa qua đào tạo nghề nên thiếu các kiến  
thức về khai thác xa bờ, không ít tàu cá khi hoạt động đánh  
bắt trên biển không tuân thủ các quy định của pháp luật. Thu  
Năm là, thành phố chưa khai thác có hiệu quả các yếu tố,  
giá trị văn hóa, tín ngưỡng biển vào phát triển du lịch. Đà  
Nẵng là thành phố biển, có thế mạnh về du lịch biển, song du  
lịch biển Đà Nẵng phát triển trong thời gian qua chủ yếu dựa  
vào các nguồn tài nguyên tự nhiên hơn là tài nguyên nhân văn,  
văn hóa. Các sản phẩm du lịch biển mới chỉ dừng lại ở mức  
độ đáp ng nhu cầu thăm quan, ngắm cảnh, chứ chưa xây  
dựng thành các chuỗi sản phẩm trải nghiệm, khám phá, chưa  
có những tour mang tính khám phá văn hóa biển, đảo như  
khám phá lễ hội cầu ngư, các trò diễn xướng dân gian... Mới  
khai thác các trò chơi dân gian của miền biển chứ chưa hình  
thành các tour tìm hiểu về đời sống sinh hoạt của cư dân ven  
biển Đà Nẵng, như phong tục tập quán, lễ hội, tín ngưỡng, lao  
động sản xuất... Những loại hình như du lịch cộng đồng,  
homestay chưa phát triển ở các làng ven biển Đà Nẵng.  
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 8(129).2018  
49  
3. Đề xuất một số giải pháp  
nhận diện và xác định mức độ tồn tại, giá trị và sức sống  
của từng loại di sản văn hóa, tín ngưỡng trong cộng đồng,  
trên cơ sở đó, mới có thể đề xuất phương án bảo tồn, phát  
huy một cách hiệu quả. Tư liệu hóa không chỉ bằng hình  
thức văn bản mà còn bằng phương pháp quay phim, ghi  
âm, chụp ảnh, in đĩa, quản lý bằng công nghệ thông tin. Ví  
như ở phương diện tín ngưỡng, đối với diễn trình các nghi  
lễ, lễ hội nên được thực hiện bằng cách nghiên cứu, viết đề  
cương, kịch bản, quay phim, chụp ảnh, dựng thành phim  
để lưu trữ. Sau đó, tiến hành hệ thống hóa các tư liệu và  
xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử về tín ngưỡng cư dân ven  
biển nói riêng, di sản văn hóa biển của thành phố nói chung.  
Từ những hạn chế, tồn tại nói trên cho thấy cần có  
những định hướng, giải pháp kịp thời, thiết thực để trước  
hết là bảo tồn, gìn giữ những giá trị văn hóa, tín ngưỡng  
biển truyền thống của cha ông bao đời nay, và sau nữa là  
khai thác hiệu quả, hợp lý những giá trị văn hóa đó, nhằm  
biến nó thành nguồn lực cho sự phát triển kinh tế của thành  
phố Đà Nẵng trong hiện tại và ở tương lai.  
- Thứ nhất, ngư dân là chủ thể của tín ngưỡng, văn hóa  
biển đảo, do đó, cách bảo tồn hiệu quả nhất phải do chính  
chủ nhân của văn hóa, tín ngưỡng này thực hiện và duy trì  
thường xuyên trong cuộc sống lao động, sinh hoạt hằng  
ngày gắn với môi trường biển. Song sự bấp bênh trong cuộc  
sống mưu sinh nơi “biển giả” cùng với đô thị hóa ngày một  
mạnh mẽ ở Đà Nẵng khiến số lượng ngư dân có chiều  
hướng suy giảm. Tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng sẽ  
mai một nếu không có bộ phận ngư dân - chủ nhân gốc và  
chính của tín ngưỡng ven biển, do đó, cần tạo điều kiện để  
ngư dân có thể tiếp tục bám biển, đảm bảo cuộc sống mưu  
sinh của mình. Muốn vậy, trước hết người dân phải khắc  
phục, từ bỏ tâm lý “sợ biển”, “quay lưng với biển”, ứng xử  
với biển theo hướng tích cực trên cơ sở tiềm năng và nguồn  
Mặt khác, ưu tiên đầu tư cho các đề tài nghiên cứu khoa  
học cấp thành phố về văn hóa, tín ngưỡng cư dân ven biển  
và tạo điều kiện xuất bản thành sách, xem đó như là một  
hình thức/thông qua đó quảng bá văn hóa truyền thống của  
vùng đất Đà thành. Quan trọng hơn, kết quả nghiên cứu của  
các công trình, đề tài khoa học sẽ tạo cơ sở lý luận và thực  
tiễn, cùng nhiều giải pháp thiết thực, hữu ích cho công tác  
phục dựng và phát huy giá trị văn hóa, tín ngưỡng cư dân  
ven biển Đà Nẵng.  
Tuy nhiên, bảo lưu tín ngưỡng dưới hình thức tư liệu  
lợi của biển được khai thác một cách an toàn và hiệu quả, hay đưa vào bảo tàng cũng chỉ là phần xác, cái hồn của tín  
nghề đi biển được bảo trợ và tôn vinh. Nhà nước và chính ngưỡng chỉ thể hiện khi có sự tham gia của con người và  
quyền thành phố Đà Nẵng cần phải tiếp tục nâng cao đời không tách rời khỏi môi trường thực hành truyền thống của  
sống cho cư dân biển đảo bằng tăng cường các chính sách nó, nên cách lưu giữ tốt nhất vẫn là thông qua việc người  
hỗ trợ vùng miền, đa dạng hóa sản phẩm từ biển, nhất là dân thực hành thường xuyên những nghi lễ cộng đồng  
thế mạnh của du lịch biển đảo, tạo mọi điều kiện tốt nhất trong cuộc sống hàng ngày.  
để ngư dân có thể đánh bắt xa bờ thể hiện quyết tâm bảo vệ  
lãnh thổ dựa trên việc bám biển của ngư dân. Chỉ khi nào  
- Thứ tư, bảo tồn trong các bảo tàng, tiến tới xây dựng  
riêng một bảo tàng văn hóa biển ở Đà Nẵng - biến nó trở  
giữ được nghề thì văn hóa, tín ngưỡng của ngư dân mới có  
thành một điểm du lịch.  
nền tảng và môi trường thực hành để tồn tại và phát triển.  
Không riêng gì Đà Nẵng, hiện tại ở Việt Nam chưa có  
một bảo tàng nào liên quan đến nghề đi biển hay truyền  
thống văn hóa biển của người Việt. Nếu chỉ lưu giữ truyền  
- Thứ hai, các cấp chính quyền thành phố Đà Nẵng cần  
đầu tư mạnh cho văn hóa, tín ngưỡng địa phương, đặc biệt là  
văn hóa, tín ngưỡng cư dân ven biển. Những sản phẩm du lịch  
thống văn hóa, tín ngưỡng biển ở trong ký ức của cộng  
văn hóa nổi tiếng của Đà Nẵng hôm nay như lễ hội bắn pháo  
đồng các cư dân duyên hải thì theo thời gian, những ký ức  
hoa quốc tế, lễ hội đường phố,... được xây dựng từ những yếu  
đó sẽ bị mài mòn mà biến mất hoặc không còn nguyên  
tố văn hóa hiện đại hơn là truyền thống văn hóa bản địa.  
vẹn/biến thể, do đó phải bảo tồn chúng trong các bảo tàng  
Những sản phẩm đó có thể dễ dàng bị bắt chước, nhanh nhàm  
quy mô và hiện đại do nhà nước đầu tư và thông qua các  
chán và điều đó sẽ khiến kinh tế du lịch thành phố không phát  
chính sách phát triển văn hóa do nhà nước chủ trương.  
triển bền vững, một khi không có những sản phẩm đặc trưng  
Tại Đà Nẵng hiện có 4 bảo tàng, gồm Bảo tàng Đà  
riêng có của vùng đất. Và muốn hình thành cái riêng đó chỉ có  
Nẵng, Bảo tàng điêu khắc Chăm, Bảo tàng Hồ Chí Minh  
thể sử dụng chất liệu là “văn hóa truyền thống”, “bản sắc văn  
chi nhánh quân khu 5, và Bảo tàng Đồng Đình. Không khó  
hóa” đã được kết tinh hàng trăm năm của vùng đất Đà Nẵng.  
để nhận thấy, văn hóa cư dân ven biển lưu giữ trong các  
Do đó, đầu tư “mạnh tay” cho văn hóa, tín ngưỡng là không  
bảo tàng ở Đà Nẵng chủ yếu mới dừng ở văn hóa vật thể.  
chỉ là việc làm cần thiết mà còn rất cấp thiết, làm nền tảng  
Đối với các văn hóa phi vật thể như tín ngưỡng, các bảo  
vững chắc cho phát triển kinh tế biển Đà Nẵng.  
tàng nên có các đầu đĩa chiếu phim ở gian trưng bày văn  
Tuy nhiên, ngoài nguồn kinh phí của Nhà nước, cần huy  
hóa biển đảo như các đoạn phóng sự, hoặc các bộ phim liên  
động nhiều nguồn hỗ trợ khác nhau trong việc bảo tồn văn  
quan hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng của cộng đồng ngư  
hóa, tín ngưỡng từ phía người dân, cơ quan, doanh nghiệp  
dân Đà Nẵng để phục vụ tối đa hơn cho nhu cầu tìm hiểu  
và tư nhân ở cả trong và ngoài nước. Thực tế cho thấy,  
của khách về văn hóa, tín ngưỡng vùng biển địa phương.  
những nơi tín ngưỡng cộng đồng truyền thống được bảo  
Tại các bảo tàng, bên cạnh những hoạt động giáo dục và  
tồn tương đối tốt hiện nay như Thanh Khê, Tân Thái là do  
chương trình công chúng mang tính giáo dục cao có liên  
có nguồn kinh phí từ nhiều nguồn tài trợ khác nhau.  
quan đến vấn đề biển đảo quê hương đã được tổ chức như:  
- Thứ ba, tư liệu hóa các giá trị văn hóa, tín ngưỡng cư  
Hoạt động “hướng về nguồn”; các buổi sinh hoạt chuyên đề,  
dân ven biển Đà Nẵng. Sở Văn hóa - Thể thao thành phố  
sinh hoạt câu lạc bộ “Em yêu lịch sử” với chủ đề “Hướng về  
Đà Nẵng cần phối hợp với các ban ngành có liên quan tổ  
biển đảo Việt Nam”; các buổi nói chuyện về chủ quyền biển  
chức đợt khảo sát quy mô lớn, điều tra, sưu tầm và thống  
đảo cho giới trẻ thành phố; triển lãm tư liệu về Hoàng Sa,  
kê các di sản tín ngưỡng, văn hóa cư dân ven biển nhằm  
50  
Lê Thị Thu Hiền  
Trường Sa; có thể mở rộng thêm các buổi nói chuyện chuyên 4. Kết luận  
đề hay tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về văn hóa, tín ngưỡng  
biển; tổ chức triển lãm tranh ảnh về cuộc sống lao động, sinh  
hoạt văn hóa, tín ngưỡng của ngư dân Đà Nẵng…  
Trong sự phát triển mạnh mẽ của đô thị hóa Đà Nẵng,  
bên cạnh việc phục hồi, khôi phục lại những tín ngưỡng  
truyền thống, xây dựng, tôn tạo lại các cơ sở thờ tự tín  
- Thứ năm, với 3260km đường bờ biển, Việt Nam có ngưỡng, là sự mai một, biến mất của một số tín ngưỡng tại  
nhiều tiềm năng và thực tế đang nỗ lực xây dựng “thương một số nơi trước đây vốn là làng chài ven biển Đà Nẵng như  
hiệu” du lịch biển. Nhận thức được giá trị của biển nên Đà Mỹ Khê, Mỹ Thị, Tân Lưu... Do đó, bảo tồn và phát huy giá  
Nẵng đã đầu tư phát triển một số loại hình, sản phẩm du lịch trị tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng là vấn đề quan  
biển đảo mới như du lịch lặn biển, khám phá các hệ sinh thái trọng, mang tính cấp thiết trong bối cảnh hiện đại ngày nay.  
biển, thưởng thức các trò giải trí gắn liền với biển như mô tô Bảo tồn tín ngưỡng truyền thống của cư dân ven biển Đà  
nước, tàu lượn, dù lượn, lướt sóng, thuyền buồm... để thu hút Nẵng không thể tách rời với việc phát huy các giá trị của tín  
du khách đến và giữ chân du khách lâu hơn. Tuy nhiên, xu ngưỡng. Bảo tồn là cái gốc, là cơ sở để phục vụ cho phát huy  
thế du lịch của du khách hiện nay không chỉ là đi để khám và ngược lại, phát huy giúp cho bảo tồn di sản được tốt hơn,  
phá những vùng đất mới, mà còn là để thưởng thức ẩm thực, vững bền hơn. Di sản văn hóa nếu chỉ bảo tồn, đóng khung  
tham quan chiêm bái lễ hội, khám phá đời sống của cư dân mà không đem ra sử dụng thì không phát huy được giá trị ẩn  
và tự thân trải nghiệm trong không gian cư trú, không gian chứa bên trong. Phát huy sẽ tạo ra hướng tiếp nhận, ảnh  
văn hóa, không gian tâm linh của cộng đồng dân cư ở điểm hưởng mới làm cho các giá trị văn hóa không những không  
đến, và trong không gian văn hóa biển, không gian tâm linh bị lãng quên mà còn được củng cố và lan rộng. Và chỉ khi  
biển đặc trưng của Đà Nẵng, tín ngưỡng cư dân ven biển là các giá trị của di sản văn hóa được khai thác, phát huy thì  
một thành tố quan trọng không thể thiếu. Do vậy, ngoài mục mới có cơ sở, có điều kiện vật chất để bảo tồn chúng.  
tiêu văn hóa, cần phục hồi và khai thác các giá trị văn hóa  
biển đặc sắc để phục vụ du lịch và quảng bá, phát huy giá trị  
Nói cách khác, bảo tồn và phát huy những giá trị tín  
ngưỡng, văn hóa của cư dân ven biển Đà Nẵng không đơn  
văn hóa biển đảo như: ẩm thực biển; tín ngưỡng thờ cá Voi  
giản là gìn giữ được những giá trị văn hóa biển đảo mà  
với lễ hội cầu Ngư; các loại hình văn nghệ dân gian miền  
quan trọng hơn chính là khơi dậy tình yêu biển đảo đối với  
biển như hát bội, hát bài chòi hay loại hình diễn xướng dân  
cộng đồng, để những di sản tinh thần, vật chất đã gắn liền  
gian từng là nét đặc sắc, hấp dẫn trong lễ hội Cầu ngư nay  
với người dân Đà Nẵng luôn song hành với đời sống của  
đã vắng bóng, đó là hát bả trạo; phục dựng thí điểm không  
họ, tiếp thêm cho họ động lực vươn khơi, bám biển; góp  
phần xây dựng và phát triển một thành phố biển nói riêng,  
gian sinh hoạt, văn hóa thường nhật của làng chài xưa...  
Muốn phát triển du lịch biển đảo một cách bền vững và một quốc gia hướng biển hùng cường và giàu mạnh.  
hiệu quả thì cần phải chú trọng đến vai trò của cộng đồng cư  
dân ven biển, đặc biệt là ngư dân. Cần quan tâm hơn nữa việc  
nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường sinh thái biển đảo;  
bảo tồn các di sản văn hóa và giá trị văn hóa biển đảo; trang  
bị cho họ những kiến thức pháp lý quốc gia và quốc tế liên  
quan đến chủ quyền biển đảo; nâng cao năng lực tham gia hoạt  
động du lịch biển đảo của người dân, và quan trọng nhất là hỗ  
trợ sinh kế cho cư dân, khuyến khích người dân tham gia vào  
hoạt động du lịch biển đảo; chia sẻ lợi ích thu được từ hoạt  
động du lịch biển đảo cho cộng đồng một cách minh bạch,  
công bằng để người dân trở thành một trong những “trụ cột”  
chính để phát triển du lịch biển đảo bền vững.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
[1] Ban Chấp hành Đảng bộ quận Sơn Trà (2005), Nghị quyết số 06-  
NQ-QU về Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vùng biển quận Sơn  
Trà đến năm 2010 và những năm tiếp theo.  
[2] Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc  
lần thứ XXI Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, Lưu hành nội bộ, Đà Nẵng.  
[3] UBND quận Liên Chiểu (2016), Quyết định số 1996/QĐ-UBND phê  
duyệt Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa trên  
địa bàn quận Liên Chiểu giai đoạn 2015 - 2020.  
[4] UBND TP. Đà Nẵng (2009), Quyết định số 7410/QĐ-UBND của  
UBND TP. Đà Nẵng ngày 26 tháng 09 năm 2009 phê duyệt Quy hoạch  
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội quận Ngũ Hành Sơn đến năm 2020.  
[5] UBND TP. Đà Nẵng (2015), Kế hoạch số 4809/KH-UBND ngày 23-  
6-2015 về việc Bảo tồn và phát huy giá trị di sản nghệ thuật Bài chòi  
tại thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 - 2020.  
- Thứ sáu, những chuyển biến ban đầu ở phương diện  
niềm tin và thực hành tín ngưỡng truyền thống của cư dân  
ven biển Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa thành phố cũng  
đặt ra vấn đề chính quyền địa phương cần có định hướng  
và hành động cụ thể trong việc nâng cao nhận thức của  
người dân về giá trị, ý nghĩa của tín ngưỡng cộng đồng bản  
địa nhằm bảo tồn và phát huy giá trị tín ngưỡng cổ truyền  
của cư dân ven biển Đà Nẵng hiện nay. Kết hợp với Ban  
khánh tiết các làng, chính quyền địa phương cần phát động  
những cuộc thi tìm hiểu về văn hóa tín ngưỡng của địa  
phương; tuyên truyền qua loa đài; hỗ trợ kinh phí tổ chức  
lễ hội để mở rộng quy mô, đa dạng hóa phần hội nhằm tăng  
tính hấp dẫn, thu hút người dân tham gia. Công tác bảo tồn  
và phát huy văn hóa tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng  
chỉ thực sự hiệu quả khi có sự chung tay, góp sức của cả  
cộng đồng và người dân phải ý thức được mình chính là  
chủ thể của tín ngưỡng chứ không phải ai khác.  
[6] UBND TP. Đà Nẵng (2016), Quyết định số 4623/QĐ-UBND ngày  
12/07/2016 của UBND Thành phố Đà Nẵng về việc ban hành Đề án  
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa thành phố Đà Nẵng, giai  
đoạn 2016 - 2020.  
UBND TP. Đà Nẵng (2016), Kế hoạch số 6144/KH-UBND về việc  
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể Lễ hội Cầu ngư  
thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020.  
van-hoa-da-nang-3533.html, Diệu Hiền (2014), Đầu tư cho văn hóa  
Đà Nẵng, truy cập ngày 27/12/2017.  
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội quận Sơn Trà đến năm  
2020, truy cập ngày 27/12/2017.  
(BBT nhận bài: 01/8/2018, hoàn tất thủ tục phản biện: 26/8/2018)  
pdf 5 trang Thùy Anh 13/05/2022 2260
Bạn đang xem tài liệu "Bảo tồn tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfbao_ton_tin_nguong_cu_dan_ven_bien_da_nang_trong_qua_trinh_d.pdf