Phong trào chống thực dân Pháp của nhân dân miền Tây Nam Kỳ từ sau năm 1867

PHONG TRÀO CHNG THC DÂN PHÁP CA NHÂN DÂN  
MIN TÂY NAM KTỪ SAU NĂM 1867  
SV: Võ Thị Sơ Ri  
Lp: ĐHSSU 17A  
GVHD: TS. Lê Đình Trọng  
Tóm tt: Phong trào kháng chiến chng Pháp ca nhân dân min Tây Nam Kỳ  
là mt trong nhng cuc kháng chiến điển hình cho truyn thống yêu nước và đấu  
tranh bo vTquc ca nhân dân ta. Trong phm vi bài viết này, tác gitp trung  
mt snội dung cơ bản: Làm rõ mt svấn đề vquá trình thôn tính min Tây Nam  
Kca thc dân Pháp; Phân tích những phong trào đấu tranh chng thc dân Pháp  
ca nhân dân Tây Nam Ktừ sau năm 1867 tiêu biu (khởi nghĩa Nguyễn Hu Huân,  
khởi nghĩa Võ Duy Dương, Đốc Binh Kiu, khởi nghĩa Nguyễn Trung Trc, khởi nghĩa  
Trần Văn Thành,… ); từ đó tác giả đưa ra những nhn xét .  
Tkhóa: Chng thc dân Pháp; Khởi nghĩa; Miền Tây Nam K.  
1. Đặt vấn đ:  
Vic nghiên cu và hc tp vphong trào kháng chiến ca nhân dân Tây Nam  
Ktrong công cuc kháng chiến chng Pháp hiện nay ích được các bn hc sinh, sinh  
viên chú trng. Mt phn là vì vấn đề quá dàn trãi khó tiếp thu; mt phn là vì hc  
sinh, sinh viên khó tiếp cn vi hin thc lch sử đều đó dẫn đến tâm lý không hng  
thú vi vấn đề này. Nm bắt được thc trng trên tác giquyết định nghiên cu phong  
trào chng thc dân Pháp ca nhân dân min Tây Nam Ktừ sau năm 1867. Từ cơ sở  
đó, giúp thế htrnhìn nhn vấn đề một cách khách quan hơn, hiểu rõ vấn đề từ đó  
lĩnh hội nhng kinh nghim, nhng bài học quý báu để áp dng vào trong thc tin.  
Đề tài còn nhm khích lệ hơn nữa tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết ý chí tlc tự  
cường trong nhân dân ta. Thông qua đề tài có thể giúp đọc gilàm rõ mt svấn đề  
chưa được làm rõ trên cơ sở các công trình nghiên cu khoa học trước đây, điển hình  
như sự liên kết mt thiết ca tng phong trào, sc ảnh hưởng của nó đối vi cả nước.  
Đề tài còn nhm cung cp thêm tài liu giúp ích cho công tác ging dy và làm vic  
ca các nhà shc sau này. Da trên nn tng phân tích rõ từng phong trào điều đó có  
thgiúp các nhà shc nắm rõ hơn vấn đề, ddàng tiếp thu và lĩnh hội vấn đề .  
2. Ni dung  
2.1. Quá trình thôn tính min Tây Nam Kca thc dân Pháp  
Trong lúc triều đình nhà Nguyễn đang thực hin những đường li kháng chiến sai  
lầm. Đầu tiên là dc lực lượng vào việc đàn áp phong trào nông dân của Nguyn Thnh  
vào tháng 4/1862 Bc Ninh; tiếp đó, đàn áp cuộc kháng chiến ca Tạ Văn Phụng ở  
Bc Kỳ,….. Lợi dng thời cơ ấy thực dân Pháp đã đẩy mạnh hơn nữa âm mưu xâm  
lược ca mình vào ba tnh min Tây Nam K.  
Triều đình còn buộc phi thc hin những điều đã cam kết vi Pháp trong Hip  
ước 1862 ra lnh gii tán nghĩa binh chống Pháp các tỉnh Gia Định, Định Tường,  
Biên Hòa. Mc dù vy, phong trào chng Pháp ca nhân dân ba tnh min Tây Nam  
Knói riêng và lc tnh Nam Knói chung vn tiếp diễn. Các sĩ phu yêu nước vn  
13  
bám đất, bám dân, cổ vũ nghĩa binh đánh Pháp và chng phong kiến đầu hàng. Riêng  
ở Đông Nam Kỳ phong trào “tị địa” diễn ra rt sôi ni, khiến cho Pháp gp rt nhiu  
khó khăn trong việc tchc, qun lí những vùng đất Pháp mi chiếm được, Các đội  
nghĩa quân vẫn không chu hạ vũ khí mà hoạt động ngày càng mnh m. Cuc khi  
nghĩa Trương Định tiếp tục giành được thng li, gây cho Pháp nhiều khó khăn.  
Nhìn mt cách tng thể, âm mưu thực dân Pháp là chiếm ly hoàn toàn phần đất  
Nam K, làm chủ lưu vực sông Cu Long, mrng phm vi thuộc địa sang  
Campuchia để tiến lên Lào và xâm nhp thị trường rng ln phía nam Trung Quc.  
Bước đầu Pháp thôn tính ba tnh miền Đông Nam Kỳ tiếp đó là thành Nam Vang với  
mc tiêu là làm cho ba tnh Tây Nam Bộ rơi vào thế gng Km và có ththddàng  
rơi vào tay chúng .  
Trong thi gian này, hoạt động du kích của các nghĩa quân ngày càng mở rng,  
đã tấn công mt số đồn của Pháp và đó chính là cái cớ để thc dân Pháp chiếm ba tnh  
min Tây. Vì Pháp nhn thy phi ngay lp tức đánh các nghĩa quân vì nếu cứ để các  
nghĩa quân hoạt động sẽ ảnh hưởng đến quyn cai trca chúng trên phm vi ba tnh  
Miền Đông, nhưng lý do là vì chúng nắm được triều đình Huế quá yếu ri không có  
cách nào kháng cự được. Do đó Pháp đã mở các cuc càng quét vào khu vực Đồng  
Tháp Mười mt cách có hthống và các nhóm nghĩa quân ở khu vực Đồng Tháp Mưi  
phi chy trn sang tn biên gii giáp vi Cao Miên. Nếu triều đình nhượng cho Pháp  
ba tnh Min Tây Nam Kthì thc dân Pháp sgiúp triều đình Huế trhết gic bin  
và sẽ đình hết mi khon tin bồi thường. Đến tháng 2/1867 Thc dân Pháp mt ln  
nữa phái người ra Huế đòi trả tin chiến phí và nhượng ba tnh miền đông cho chúng .  
Đến sáng ngày 20/06/1867 Thực dân Pháp đã bắt đầu triển khai âm mưu chiếm ba tnh  
Min Tây Nam Kỳ đầu tiên chúng dàn trận trước thành Vĩnh Long buộc Phan Thanh  
Gin phi nộp thành. Tuy nhiên, trước tình thế đó Phan Thanh Giản và Trương Văn  
Uyển đã nghị hòa với địch nhưng bất thành điều đó đã khiến Phan Thanh Gin phi  
np thành cho Pháp không mt chút kháng cự . Đứng trước sbt lực như thế Phan  
Thanh Gin còn viết thư cho quan quân hai tỉnh còn li là An Giang và Hà Tiên np  
thành để “ tránh khỏi mi sự đổ máu vô ích”. Tuy quá trình chiếm hai tnh Min Tây  
Nam Kcòn li là An Giang (21/06) và Hà Tiên(24/06) dễ dàng hơn ba tỉnh Min  
Đông vì quan quân triều đình ở hai tnh này vn sPháp nên sn sàng np thành cho  
giặc . Đến ngày 25/06/1867 toàn b6 tnh Nam Kỳ đã bị thc dân Pháp thôn tính,  
nhưng chúng ta không thể đổ hoàn toàn li lm lên Phan Thanh Gin. Vì nhìn chung  
quan quân lúc này đã thiếu chun bmc dù có biết trước là Pháp sẽ đánh chiếm ba  
tnh Min Tây, Thm chí “ Khi tàu chiến Pháp tới trước thành Vĩnh Long, dân chúng  
tưởng là tàu quân Pháp ngược sông qua Cao Miên đã tụ hp trên bờ sông để xem; Ở  
6
Châu Đốc và Hà Tiên, người ta cũng tưởng là quân Pháp chỉ đi thám sát mà thôi” .  
Do đó quan quân nhất thi chquan không kp kháng c, tuy nhiên cho dù có kháng  
cự thì vũ khí của ta cũng không kháng cự nổi vũ khí tối tân ca Pháp . Mặc dù đã thất  
6
Nguyn Thế Anh, (2007), Vit Nam thời Pháp đô hộ, NXB. Văn Học, TP.HCM  
14  
thc6 tnh Nam Kỳ nhưng nhân dân ở cTây Nam Knói riêng và lc tnh Nam Kỳ  
nói chung đều có mt tinh thn chiến đấu rất anh dũng và quyết lit.  
2.2. Phong trào đấu tranh chng thc dân Pháp ca nhân dân Tây Nam Kỳ  
từ sau năm 1867  
Ktừ ngày 17 tháng 2 năm 1859, quân Pháp nổ súng đánh chiếm thành Gia  
Định. Và chỉ trong vòng 8 năm, bằng nhng thủ đoạn chính tr, quân sự, Pháp đã xâm  
chiếm toàn b6 tnh min Nam.  
Trước sự nhu nhược, chủ trương cầu hòa vi Pháp ca triều đình Tự Đức mt số  
văn thân, sĩ phu yêu nước bt hp tác vi giặc, tìm cách vượt bin ra vùng Bình Thun  
(Nam Trung K) vi mc tiêu tchc mt cuc kháng chiến lâu dài. Mt skhác li  
bám đt, bám dân, tiếp tc tiến hành cuộc vũ trang chống Pháp.  
Phong trào chng Pháp do Nguyn Hữu Huân lãnh đạo đã phần nào minh chng  
cho tinh thần yêu nước ca dân tộc ta. Phong trào đã nhanh chóng lan khắp min Tây  
Nam Kvà trthành mt hthng kháng chiến vng chắc. Đến năm 1874, lực lượng  
nghĩa quân suy yếu do thiếu khí giới và đạn dược. Thc dân Pháp liền huy động mt  
lực lượng ln tấn công căn cứ Bình Cách . Nguyn Hu Huân thoát chy vChGo.  
Đầu năm 1855, Nguyễn Hu Huân trlại vùng Tân An để tp hp li lực lượng tiếp  
tục con đường chống Pháp, nhưng bị Pháp và tay sai bao vây lùng bt. Sau khi bt  
được Nguyn Hu Huân, thực dân Pháp đưa ông lên Sài Gòn. Sau đó, lại gii vMỹ  
Tho để xtông ti Bến Tranh vào ngày 19 tháng 5 năm 1875. Trước khi hành hình,  
giặc Pháp đóng gông, bắt ông ngồi trên mũi thuyền chtnhà ngc Mỹ Tho đến Bến  
Tranh. Giặc Pháp cho đánh trống inh ỏi để quy tdân chúng, hòng uy hiếp tinh thn  
ca những người yêu nước  
Về Võ Duy Dương ông là một vị anh hùng, là một vị lãnh tụ có tài cầm quân nổi  
bậc trong phong trào kháng chiến chống Pháp của miền Tây Nam Kỳ, tên tuổi của ông  
gắn bó chặt chẽ với vùng đất Đồng Tháp Mười . Trong những năm đầu kháng chiến  
chống Pháp, ông và nghĩa quân đặt dưới sự chỉ huy của lãnh binh Trương Định và là  
trợ thủ thân cận của Nguyễn Hữu Huân. Địa bàn hoạt động chủ yếu là từ phía nam  
sông Vàm Cỏ Tây sang Gò Cái Én rồi đến Bình Cách , Gò Cái Lữ , Thuộc Nhiêu,..  
Sau khi Trương Định mất, có thể xem phong trào của ông có sức lan tỏa lớn nhất ở  
thời Kỳ này, và được nhân dân hưởng ứng rất mạnh mẽ. Phong trào lúc bấy giờ được  
lan rộng ra các tỉnh: Vĩnh Long, An giang, Hà Tiên, biên giới Việt Nam-  
Campuchia,... Bên cạnh đó, ông cũng rất chú trọng chiêu mộ dân binh lập căn cứ địa ở  
vùng Đồng Tháp ( Gò Tháp) bởi nơi đây là vùng có địa thế hiểm trở, xung quanh rất  
nhiều lau sậy có thể dễ dàng giúp nghĩa quân ẩn náu. Hơn nữa Đồng Tháp Mười cũng  
là nơi giao thông giữa miền Đông và miền Tây Nam Kỳ, thậm chí có thể sang  
Campuchia. Tuy nhiên ở nơi đây cũng có một số hạn chế là không thể tự giải quyết  
vấn đề lương thực, thường xuyên hứng chịu các đợt nước lũ về, … Đến giữa năm  
1865, thế là lực của nghĩa quân tương đối khá vững, nghĩa quân Đồng Tháp Mười bắt  
đầu tấn công Cái Bè, Cái Thia, Cai Lậy, Mỹ Quí... Đặc biệt là trận vào đêm 21 rạng  
ngày 22-7-1865, Thiên Hộ Dương cho nghĩa quân triệt hạ đồn Mỹ Trà. Ngay sau đó  
nghĩa quân bị thực dân Pháp đàn áp mạnh mẽ, ông phải bỏ đồn và cho nghĩa quân rút  
15  
lui theo hai hướng: hướng Tây về biên giới, hướng Đông về Cái Thia (Cái Bè). Riêng  
ông rút về Cao Lãnh phối hợp với Trương Tuệ, và nghĩa quân Campuchia A-cha Xoa  
nước đánh lên vùng Tây Ninh gây cho giặc một số thiệt hại đáng kể. Thực dân Pháp  
gây sức ép với triều đình buộc triều đình phải truy nã ông, phong trào ngày một suy  
yếu do thiếu thốn lương thực, vũ khí, đạn dược . Đến 10/1866 trên đường Bình Thuận,  
ông bị cướp biển giết chết tại cửa biển Thân Mẫu (Cần Giờ). Phong trào tuy thất bại  
nhưng đã thể hiện tinh thần yêu nước, quyết tâm bảo vệ bờ cõi của ông .  
Về Đốc Binh Kiều - Ông là một người con gốc miền Trung và dời vào Kiến  
Đăng, Định Tường sinh sống. Ông được Trương Định phong chức Đốc Binh và là trợ  
thủ đắc lực của Võ Duy Dương. Khi Trương Định mất,  
ông theo Võ Duy Dương  
về lập căn cứ ở Đồng Tháp Mười. Ông đảm đương việc xây dựng căn cứ. Ông còn  
được giao nhiệm vụ trấn thủ đồn tả đề phòng giặc từ Cai Lậy, Cái Bè tiến công vào.  
Ông chủ động kéo quân ra đánh Cai Lậy và nhiều nơi khác, không chờ giặc tới đánh  
mới chống đỡ. Ông vẫn dùng chiến thuật du kích kết hợp với kinh nghiệm dân gian  
sáng tạo các cách đánh giặc độc đáo như đốt đồng, dùng ong, dùng trâu, hầm chông...  
làm cho giặc Pháp và tay sai vô cùng khiếp sợ. Cả một tuyến dài từ Cái Bè đến Cai  
Lậy, ông luôn giữ thế chủ động. Chúng rất căm tức, nhưng không sao tiêu diệt ông.  
Vào tháng 4/1866 thực dân Pháp mở đợt tấn công vào Tháp Mười nhưng chúng không  
đạt được mục đích và phải rút lui bởi sự chống trả quyết liệt của nhân dân ta. Ông lên  
đài quan sát theo dõi cuộc thoái binh của giặc, chẳng may ông bị thương. Ông được  
đưa về gò Giồng Dung điều trị. Mấy ngày sau, được tin đại đồn thất thủ ông uất lên mà  
chết.  
Trong cuc kháng chiến chng Pháp ca nhân dân Tây Nam Kkhông thkhông  
nhắc đến Nguyn Trung Trc, ông là một con người qucảm, đầy tinh thần yêu nước  
và nhit huyết. Tháng 2 năm 1859, Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Vn xut  
thân là dân chài, nm trong hthống lính đồn điền của kinh lược Nguyễn Tri Phương,  
nên ông st sng theo và còn chiêu mộ được mt số nông dân vào lính để gìn giữ Đại  
đồn Chí Hòa, dưi quyn chhuy của Trương Định.  
Sau đó ông là quyền sung Quản binh đạo và chỉ huy đốt cháy tàu L'Espérance  
của Pháp, nên ông còn được gi là Quản Chơn hay Quản Lch. Đầu năm 1867, ông  
được triều đình phong chức Hà Tiên thành thúy[7] để trn giữ đất Hà Tiên, nhưng  
ông chưa kịp đến nơi thì tòa thành này đã bị quân Pháp chiếm mt vào ngày 24 tháng  
6 năm 1867. Không theo lnh triều đình rút quân ra Bình Thun, Nguyn Trung Trc  
đem quân về lp mt khu Sân chim (tngn sông Cái Ln, huyn An Biên, tnh Kiên  
Giang). Từ nơi này, ông lại dẫn quân đến Hòn Chông (nay thuc xã Bình An,  
huyn Kiên Lương, tnh Kiên Giang, lập thêm căn ckháng Pháp.Sáng ngày 16 tháng  
06 năm 1868, Nguyễn Trung Trực đã chủ động tấn công đồn Rch Giá. Sau mt trn  
quyết chiến giáp lá cà, hu hết quân địch trong đồn bgiết, kcả đồn trưởng và chủ  
tnh Rch Giá. vào 4 giờ sáng ngày 16 tháng 6 năm 1868, Nguyn Trung Trc bt ngờ  
dn quân từ Tà Niên (nay là xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyn Châu Thành, tnh Kiên Giang)  
đánh úp đồn Kiên Giang (nay là khu vc UBND tnh Kiên Giang), do Trung úy  
Sauterne chhuy.  
16  
Đây là lần đầu tiên, lực lượng nghĩa quân đánh đối phương ngay ti trung tâm  
đầu não ca tỉnh. Hai ngày sau (ngày 18 tháng 6 năm 1868), Thiếu tá hi quân  
Léonard Ausart, Đại úy Dismuratin, Trung úy hi quân Richard, Trung úy Taradel,  
Trn Bá Lc, Tổng Đốc Phương nhận lnh Bchhuy Pháp MTho mang binh từ  
nh Long sang tiếp cứu. Ngày 21 tháng 6 năm 1868, Pháp phản công, ông phi lui  
quân về Hòn Chông (Kiên Lương, Kiên Giang) rồi ra đảo Phú Quc, lp chiến khu ti  
Ca Cn nhm Knh chống đối phương lâu dài.  
Tháng 9 năm 1868, chiếc tàu Groeland chLãnh Binh Tn (tc Huỳnh Văn  
Tấn, còn được gi Hunh Công Tấn, trước có quen biết ông Trc vì cùng theo  
Trương Định kháng Pháp. Sau này, Tn trthành cng scho Pháp), cùng  
150 lính ở Gò Công đến đảo Phú Quốc để bao vây và truy đuổi ông Trc.7  
Có người cho rằng để bo toàn lực lượng nghĩa quân, nhân dân trên đảo và  
lòng hiếu vi mẹ ( Pháp đã bắt mcủa ông để uy hiếp ), Nguyn Trung Trc tự  
ra nộp mình cho người Pháp và bị đưa về giam Sài Gòn.8  
Khi bgic bt về Sài Gòn đem đi hành hình, ông đã khẳng khái nói: “Bao giờ  
người Tây nhhết cỏ nước Nam thì mi hết người Nam đánh Tây”. Sau khi Nguyễn  
Trung Trc mt tinh thần yêu nước của nghĩa quân ông vẫn không bdp tt, mà họ đã  
cùng với Đỗ Thừa Long, Đỗ Tha Tlập căn cứ chun bcho mt cuộc đấu tranh  
chng Pháp vùng U Minh.  
Ngày 22/6/1867, quân đội Pháp chiếm thành Châu Đốc (tnh An Giang). Trn  
Văn Thành đã kéo lực lượng dân binh vBảy Thưa xây dựng căn cứ, đồng thi phi  
hp với nghĩa quân của Nguyn Trung Trc chun bcho quá trình kháng chiến chng  
Pháp lâu dài trong vùng Tgiác Long Xuyên .  
Láng Linh (xưa thuộc huyn Tây Xuyên, phTuy Biên, tnh An Giang, nay là xã  
Thnh MTây, huyn Châu Phú, An Giang) là một cánh đồng bao la bát ngát,  
không mt kinh rạch thông vào, đế sy mc tràn lan dày đặc, nhiu chsình ly  
nước đọng quanh năm, lại có lm thú to rắn độc. Vùng này ít có người lui ti,  
ngoi trnhng tay thợ săn và những người theo giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương  
đến chiêm bái tri ruộng “Bửu Hương Các” do ông Trần Văn Thành trông coi.  
Đa thế Láng Linh rt him tr, vùng này qulà một căn cứ kháng chiến vng  
chc. Tại đây ông Trần Văn Thành ra lệnh tuyn mbinh lính, xây dựng đồn  
chỉ huy Hưng Trung và có nhiều đồn tri xung quanh, tp trung các nhu cu  
cn thiết cho vic kháng chiến mà ông đã chun btừ trước.9  
Năm 1868, Nguyễn Trung Trc bxtti Rch Giá, Trần Văn Thành đã quy tụ  
nghĩa quân của Nguyn Trung Trc vcng scùng ông và chiêu mnhân dân khp  
7 Thùy Linh - Vit Trinh (2011), Nhân vt lch sVit Nam và Nhng trận đánh , chiến dch ni tiếng trong  
lch sdân tc, tập 2, Nxb. Lao động .  
8 Thùy Linh - Vit Trinh (2011), Nhân vt lch sVit Nam và Nhng trận đánh , chiến dch ni tiếng trong  
lch sdân tc, tập 2, Nxb. Lao động .  
9
Trần Văn Đông, Ý nghĩa lịch sca Cuc kháng chiến Bảy Thưa (1867-1873) trên địa bàn tnh An Giang,  
nghia-bay-thua-1867-1873-tren-dia-ban-tinh-an-giang, [truy cp ngày: 12/01/2019].  
17  
vùng min Tây vLáng Linh- Bảy Thưa xây dựng đồn lũy, rèn đao kiếm, súng ng,  
lương thực, đánh phá đồn bót gic,... Quân Pháp nhiu lần đánh vào Bảy Thưa nhưng  
không đạt kết quả. Đầu năm 1873, thực dân Pháp cho người mang thư đến mua chuc  
ông quy thun .  
Biết không mua chuộc được Trần Văn Thành, thực dân Pháp huy động mt lc  
lượng lính Mã Tà ở Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ tấn công nhiều hướng  
vào căn cứ Bảy Thưa từ ngày 19-20 tháng 3 năm 1873 (nhằm ngày 20 và 21  
tháng 2 Âl). Trần Văn Thành trực tiếp chỉ huy nghĩa quân chống gic và hy  
sinh anh dũng trước mũi súng của kthù ngày 21 tháng 2 Quý Du (1873). Con  
trai thca ông là Trần Văn Chái (1855-1873) bgic bắt, sau đó tuẫn tiết  
trong khám Châu Đc10  
Cuc kháng chiến Bảy Thưa chống thực dân Pháp xâm lược do Chánh Quản cơ  
Trần Văn Thành lãnh đạo, được tchc thành mt phong trào rng ln lúc by gi.  
Nó thu hút được đông đảo các tng lp nhân dân tham gia, từ nông thôn đến min núi  
như: sĩ phu, võ tướng trí thc, thanh niên, phnữ. Do động viên được nhân dân tham  
gia và chính hlà những người nuôi dưỡng phong trào kháng chiến được kéo dài.  
Cuc chiến tranh ở đây được thhin một cách rõ nét và độc đáo như: quần chúng  
tham gia nghĩa quân trực tiếp chiến đấu, người không tham gia được thi vận động cổ  
vũ, tiếp tế lương thực, thc phm, thuốc men… Ngoài ra quần chúng quanh vùng hết  
lòng che chở và hướng về nghĩa quân. Bởi vì họ đều có tấm lòng yêu nước nng nàn,  
một ý chí căm thù giặc Pháp xâm lược.  
Vào năm 1872 những toán quân Lê Công Thành, Phạm Văn Đồng, Âu Dương  
Lân ở Vĩnh Long, Long Xuyên, Cần Thơ cũng hoạt động rt mnh m. Trong nhng  
điều kiện khó khăn hơn nhiều so vi thi Kthc dân Pháp mi xâm chiếm Nam K,  
phong trào kháng chiến ba tnh min Tây vn din ra sôi ni, bn b. Tuy nhiên, do  
tương quan lực lượng ngày mt chênh lch không có lợi cho ta, vũ khí thì thô sơ, cuối  
cùng phong trào đều bị đàn áp và thất bi.  
2.3. Nhn xét  
Tuy rng, trong cuc kháng chiến ca nhân dân Tây Nam Kỳ không đạt đến  
thng lợi, nhưng cũng đã phần nào minh chng cho tinh thần yêu nước bt khut ca  
dân tc ta. Vcuc kháng chiến ca Nguyn Trung Trc tuy rng tht bại vì tương  
quan lực lượng không đồng đều, nhưng đã nêu cao tinh thần yêu nước ca dân tc,  
mt ln na chng minh tinh thần yêu nước luôn trường tn. Vcuc kháng chiến ca  
Võ Duy Dương cũng đã gây cho giặc rt nhiu thit hi ở đồn Mỹ Trà, đồn Tây  
Ninh,…. Tuy nhiên phong trào đã sớm tht bi vì gp rt nhiều khó khăn. Thứ nht, bị  
Pháp đàn áp; thứ hai nghĩa quân thiếu thốn lương thực, vũ khí đạn dược. Nhưng cuộc  
kháng chiến cũng đã thể hin tinh thần yêu nước mãnh lit, dám hy sinh bản thân để  
bo vtquc của ông và nghĩa quân lúc bấy gi. Vcuc kháng chiến ca Trần Văn  
10  
Trần Văn Đông, Ý nghĩa lịch sca Cuc kháng chiến Bảy Thưa (1867-1873) trên địa bàn tnh An Giang,  
nghia-bay-thua-1867-1873-tren-dia-ban-tinh-an-giang, [truy cp ngày: 12/01/2019].  
18  
Thành do điều kin khách quan lúc by gi, cuc chiến tranh nhân dân Láng Linh -  
Bảy Thưa chưa được xây dng và phát triển đúng mức. Nó còn nhiu gii hn, nht là  
ảnh hưởng ca phong trào không sâu rng mà chbó hp trong phm vi tnh An Giang.  
Hơn nữa, cuc kháng chiến này chưa lập được mt chiến công nào vang dội như đốt  
tàu Pháp trên sông Nht To hay chiếm thành Kiên Giang ca Nguyn Trung Trc. Do  
đó, nó chưa thể vn dng và phát huy toàn din khả năng chiến đấu ca nhân dân  
quanh vùng, nên sm tht bi sự đàn áp dã man của thực dân Pháp. Nhưng dù sao Trần  
Văn Thành và những nông dân yêu nước ở đây đã nêu tấm gương anh hùng bất khut  
ca nhân dân An Giang trong lch struyn thống đấu tranh dựng nước và giữ nước.  
Để làm rõ hơn nữa vấn đề chúng ta cn so sánh tinh thn chng Pháp ca vua quan  
triu Nguyn và ca nhân dân t1867, từ đó làm rõ những cng hiến ca nhân dân ba  
tnh min Tây Nam Ktrong công cuc bo vệ đất nước. Vphía triều đình, chủ  
trương cốt yếu là cầu hòa, thương lượng, mt mt thì tìm cách ng hộ nghĩa binh, ban  
thưởng, chức tước cho Trương Định, Nguyn Trung Trc, mt khác lại điều hai ông ra  
min Trung canh gibphòng, không cho hai ông liên kết nghĩa quân chống Pháp dễ  
bề thương lượng, thậm chí còn ra tay đàn áp các nghĩa quân có tư tưởng làm trái ý vua  
đứng lên kháng Pháp. Còn về phía nhân dân, trước sau như một trên dưới mt lòng  
quyết tâm kháng Pháp, quyết tâm đánh đuổi bn phú lan sa bo vbcõi dân tc, sn  
sàng làm trái lnh triều đình bám đất cùng nhân dân kháng chiến như Trương Định,  
Nguyn Trung Trực,… Phong trào kháng chiến thi Knày có mt số điểm ni bc  
là các phong trào đều có mt sliên kết nhất định, to thành một làn sóng đấu tranh  
vô cùng mnh mẽ mà đó chính là cơ sở, là bài hc kinh nghim giúp thế hsau noi  
theo.  
3. Kết lun  
Đứng trước nguy cơ bị Pháp xâm lược, triều đình nhà Nguyễn không nhng  
không dc sức cùng toàn dân đánh gic, mà luôn mang nặng tư tưởng cầu hòa, nhượng  
b. Mt mt , ban chức tước cho những nghĩa sĩ có công đánh Pháp; mặt khác tng  
bước tách các lãnh tụ nghĩa quân ra khỏi cuc kháng chiến, thậm chí là đàn áp các  
cuc kháng chiến trong thời kì này để dbề thương lượng, khiến cho nhân dân phi tự  
mình đảm đương snghip cứu nước.  
Bt chp sc mnh của địch và scu hòa ca triều đình Huế, nhân dân ba tnh  
Tây Nam Knói riêng và cả nước nói chung đã anh dũng chiến đấu đánh đuổi Thc  
dân Pháp ra khi lãnh thmt cách hiên ngang bt khut. Tuy rng, trong cuc kháng  
chiến ca nhân dân Tây Nam Kỳ không đạt đến thng lợi, nhưng cũng đã phần nào  
minh chng cho tinh thần yêu nước bt khut ca dân tc ta,...Là một người con ca  
nước Vit nói chung và sinh viên Đại học Đồng Tháp nói riêng, chúng ta nên cgng  
hoàn thành tht tốt nghĩa vụ ca một người công dân, tiếp tc góp mt phn nhsc  
lc ca mình vào công cuc xây dng và bo vtquốc, để xứng đáng hơn nữa nhng  
công sc mà thế hệ đi trước đã gìn gicho chúng ta.  
TÀI LIU THAM KHO  
[1]. Đinh Xuân Lâm (CB - 1998), Đại cương lịch sVit Nam, Nxb. Giáo dc.  
19  
[2]. Lê Thành Khôi (2018), Lch sVit Nam tngun gốc đến gia thế kXX,  
Nxb. Thế Gii.  
[3]. Nguyn Ngọc Cơ (CB - 2005), Lch sVit Nam từ 1858 đến 1918, Nxb. Đi  
học Sư phm.  
[4]. Nguyn Thế Anh (2007), Vit Nam thời Pháp đô hộ, Nxb. Văn hc.  
[5]. Thùy Linh - Vit Trinh (2011), Nhân vt lch sVit Nam và Nhng trn  
đánh , chiến dch ni tiếng trong lch sdân tc, tập 2, Nxb. Lao Động  
[6]. Trần Văn Đông, Ý nghĩa lịch sca Cuc kháng chiến Bảy Thưa (1867-  
1873) trên địa bàn tnh An Giang, http://bantuyengiaoangiang.vn/index.php/lich-su-  
1873-tren-dia-ban-tinh-an-giang, [truy cp ngày: 12/01/2019].  
20  
pdf 8 trang Thùy Anh 13/05/2022 3380
Bạn đang xem tài liệu "Phong trào chống thực dân Pháp của nhân dân miền Tây Nam Kỳ từ sau năm 1867", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfphong_trao_chong_thuc_dan_phap_cua_nhan_dan_mien_tay_nam_ky.pdf