Bộ môn Tài chính – ngân hàng trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của Ngân hàng hiện đại
12/2019
KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG
BỘ MÔN TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA NGÂN HÀNG HIỆN ĐẠI
ThS. Nguyễn Thị Nga My(*)
Tóm tắt
Trong thời đại công nghiệp lần thứ 4 đang có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi nền kinh tế,
mọi lĩnh vực như hiện nay, ngân hàng cũng không nằm ngoài xu thế đó, cần phải làm chủ
công nghệ để có thể tồn tại và phát triển được. Tuy nhiên, nguồn nhân lực mới là nòng cốt
làm nên sự khác biệt của ngân hàng trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng.
Bài viết đã phân tích một số góc cạnh thực trạng nguồn nhân lực ngành ngân hàng và đề xuất
một số giải pháp để giải quyết các vấn đề hạn chế trong thực trạng nguồn nhân lực ngành
Ngân hàng tại Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Ngân hàng là huyết mạch của nền kinh
kinh tế. Với bài viết này, tác giả sẽ khái quát
thực trạng ngành Ngân hàng Việt Nam trong
thời gian qua, tìm ra những hạn chế và
nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành
Ngân hàng Việt Nam.
tế, hoạt động bao trùm và có tác động mạnh
mẽ đến tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội. Vì
vậy, phát triển vững mạnh ngành Ngân hàng
luôn là vấn đề xã hội quan tâm. Trải qua gần
70 năm thành lập và phát triển, ngành Ngân
hàng Việt Nam đã có những phát triển vượt
trội từ sự phát triển mạnh mẽ về công nghệ,
trình độ quản lý, năng lực tài chính, đội ngũ
nhân lực. Ngành Ngân hàng Việt đã và đang
cung cấp rất nhiều các cơ hội làm việc,
mang đến số lượng vị trí việc làm khổng lồ
cho thị trường lao động. Tuy nhiên, nhìn
nhận lại những năm qua, thị trường lao động
ngành Ngân hàng luôn có nhiều bất ổn, có
thể kể đến đó là sự mất cân bằng về cung
cầu lao động, tình trạng thừa nhân sự nói
chung nhưng lại thiếu nhân sự chất lượng
cao, nhân sự yếu kém về kỹ năng công nghệ
thông tin, hay nhân sự chưa gắn kết lâu dài
với ngân hàng, một số trường hợp đạo đức
cán bộ nhân viên ngân hàng bị tha hóa, gây
thiệt hại nghiêm trọng cho nền
2. Nguồn nhân lực của ngân hàng và đặc
điểm nguồn nhân lực ngân hàng Việt
Nam
2.1. Nguồn nhân lực của ngân hàng
Nguồn nhân lực của ngân hàng là toàn
bộ người lao động làm việc trong ngân
hàng, với nòng cốt là đội ngũ nhân sự trình
độ cao, làm việc chuyên nghiệp, sáng tạo và
có đạo đức nghề nghiệp, được tổ chức quản
lý và phát triển nhằm làm tốt vai trò chủ thể
trong quá trình thực thi chiến lược của ngân
hàng thương mại, đáp ứng yêu cầu của nền
kinh tế trong từng giai đoạn.
Với đặc điểm ngân hàng là tổ chức đặc
biệt phải chịu trách nhiệm với những nguồn
lực tài chính khổng lồ trong nền kinh tế. Để
hoạt động hiệu quả, nguồn nhân lực của
ngân hàng phải đảm bảo được những yếu tố
đặc thù. Nguồn nhân lực ngành Ngân hàng
(*) Giảng viên khoa Kinh tế, Trường ĐH Kiến trúc Đà Nẵng
68
KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019
phải lấy nòng cốt là đội ngũ nhân sự trình độ
cao, có chất lượng cao. Đây được hiểu là lực
lượng làm việc, sẽ làm việc tại ngân hàng
đáp ứng với mục tiêu đã đặt ra của ngân
hàng về trình độ kiến thức, kỹ năng, về vị
trí, về lĩnh vực, kinh nghiệm công tác ở mức
độ cao và phức tạp, phù hợp với yêu cầu
phát triển của ngân hàng, xã hội, nền kinh tế
trong từng giai đoạn.
dụng đầu vào khá khắt khe và các Ngân
hàng thương mại cũng rất chú trọng đến
công tác đào tạo kỹ năng định kỳ cho nhân
viên
Nguồn nhân lực còn mang nhiều sức ỳ.
Xuất phát từ nền kinh tế lấy nông nghiệp
làm chủ đạo, một bộ phận nhân lực trong
nước vẫn còn bị ảnh hưởng, tác phong công
nghiệp và kỷ luật lao động chưa cao
Không chỉ chú trọng đến lực lượng
đang làm việc, nguồn nhân lực của ngân
hàng thương mại còn bao gồm cả lực lượng
sẽ làm việc. Từ khái niệm này, các ngân
hàng thương mại cần một tầm nhìn dài hạn
hơn về vấn đề nguồn nhân lực để đảm bảo
tốt hoạt động liên tục của ngân hàng.
Bên cạnh những đặc điểm chung,
nguồn nhân lực của ngân hàng thương mại
có những đặc điểm riêng như sau:
Thứ nhất, chất lượng nguồn nhân lực
trong ngân hàng thương mại còn nhiều hạn
chế. So với nhiều ngành nghề lĩnh vực khác,
đầu vào tuyển dụng của khối ngân hàng
thương mại khá cao và khắt khe, từ yêu cầu
về ngoại hình, bằng cấp tới chuyên môn
nghiệp vụ ngoại ngữ, tin học, kỹ năng. Tuy
nhiên vẫn còn một khoảng cách khá lớn
giữa đào tạo tại nhà trường so với thực tiễn
làm việc tại Ngân hàng. Do vậy, hầu hết các
sinh viên mới ra trường đều phải trải qua
khoảng 2 đến 6 tháng học việc và 2 tháng
thử việc để được hướng dẫn công việc tại
Ngân hàng trước khi giao việc chính thức.
Một số trường hợp có thể phải trải qua giai
đoạn tập sự từ 6 tháng đến 1 năm trước khi
được học việc. Tuy nhiên cũng có một số
trường hợp được thử việc ngay khi đỗ vào
Ngân hàng. Điều này còn do từng Ngân
hàng, vị trí việc làm và năng lực của các
ứng viên thông qua hồ sơ và thể hiện qua
quá trình ứng tuyển.
Ngân hàng là tổ chức có ảnh hưởng
tương đối lớn trong xã hội và nền kinh tế.
Do đó, nguồn nhân lực của ngân hàng
thương mại không chỉ phục tùng sứ mệnh
của tổ chức, mà còn cần có trách nhiệm với
lợi ích quốc gia, biết nỗ lực vì sự thịnh
vượng chung của xã hội.
2.2. Đặc điểm nguồn nhân lực ngành
Ngân hàng tại Việt Nam
Nguồn nhân lực của ngân hàng thương
mại, trước hết, mang những đặc điểm chung
của nguồn nhân lực Việt Nam, cụ thể:
Thể trạng của nguồn nhân lực nhìn
chung còn hạn chế, nhưng bù lại có nhiều
thế mạnh như tố chất thông minh, khéo léo
và tỉ mỉ.
Nguồn nhân lực còn yếu về ngoại ngữ,
tin học và thiếu hụt các kỹ năng. Đây trở
thành một trong những rào cản chính trong
tiến trình hội nhập. Tuy nhiên, so với mặt
bằng chung, nguồn nhân lực ngành Ngân
hàng được đánh giá có sự phát triển kỹ năng
mềm khá tốt hơn do những yêu cầu từ tuyển
Thứ hai, với sự phát triển nhanh chóng
của lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam, cũng
như sự thay đổi của hạ tầng công nghệ và
quá trình hội nhập quốc tế, một bộ phận
nhân lực có thâm niên cao trong các ngân
69
12/2019
KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG
hàng thương mại gặp nhiều khó khăn trong
việc bắt kịp điều kiện kinh doanh mới. Điều
này có thể thấy rõ qua các cuộc đào thải tại
các Ngân hàng thương mại. Nhân lực Ngân
hàng phải thường xuyên học hỏi, trau dồi,
nâng cao năng lực để vượt qua được các kỳ
thi sát hạch chuyên môn, thích ứng được với
công nghệ mới. Điều này sẽ giúp bản thân
của nhân viên và cả ngân hàng cũng sẽ ngày
càng phát triển.
thể: năm 2000, tổng số cán bộ công nhân
viên làm việc trong ngành ngân hàng là
67.558 người, đến năm 2012 con số này đã
là 180.000 người. Theo Phê duyệt Quy
hoạch Phát triển nhân lực Việt Nam giai
đoạn 2011 – 2020 Đến năm 2015, nhân lực
làm việc trong ngành ngân hàng là 240.000
và dự báo đến năm 2020 tổng số nhân lực
trong ngành ngân hàng vào khoảng 300.000
người.
Thứ ba, một đặc điểm đáng chú ý nữa
của nguồn nhân lực trong ngân hàng thương
mại là việc thiếu hụt chuyên gia, đặc biệt là
các vị trí đòi hỏi chất lượng cao như các vị
trí quản trị rủi ro, hoạch định…
Nhìn nhận thị trường lao động ngành
Ngân hàng trong thời gian qua, có thể thấy
sự tăng trưởng nhanh nhưng khá bất ổn. Có
những giai đoạn ngành Ngân hàng, nhu cầu
tuyển dụng rất nóng trên thị trường lao
động. Cụ thể như những năm 2005 – 2008,
sinh viên ra trường có thể dễ dàng tìm kiếm
được một vị trí việc làm tại Ngân hàng. Đó
là những thời điểm cả nền kinh tế tăng
trưởng nóng, số lượng các chi nhánh phòng
giao dịch của ngân hàng gia tăng nhanh
chóng, các ngân hàng đã tuyển dụng ồ ạt
nhân sự. Riêng năm 2017, tỷ lệ tăng trưởng
tín dụng của ngành kinh tế đến 53,89%. Cho
đến năm 2009, khi cuộc khủng hoảng kinh
tế xảy ra, thị trường trong nước nói chung
và ngành Ngân hàng nói riêng đứng trước sự
suy giảm về tốc độ phát triển. Hàng loạt các
ngân hàng rơi vào diện kiểm soát đặc biệt,
phải bắt buộc tái cơ cấu. Nhân sự Ngân
hàng cũng theo đó bị cắt giảm hoặc cũng tự
rời bỏ việc do chế độ lương thưởng cũng bị
cắt giảm. Những năm 2011 – 2013, tăng
trưởng tín dụng của nền kinh tế rất thấp, cho
đến năm 2014 mới tăng tốc trở lại với mức
18% năm 2015.
Thứ tư, cơ cấu nguồn nhân lực có đặc
thù giới tính. Điển hình như ở bộ phận giao
dịch của các ngân hàng thương mại chủ yếu
là nữ giới. Trong khi đó, công việc ở bộ
phận tín dụng hay thu hồi nợ lại thường có
tỷ lệ nam giới cao hơn.
Thứ năm, nguồn nhân lực ngành Ngân
hàng không ổn định. Về phía Ngân hàng,
thường xảy ra các cuộc đào thải hàng loạt,
tuyển dụng hàng loạt. Về phía người lao
động, tình trạng nhảy việc tại các ngân hàng
khá lớn, đặc biệt là các bộ phận kinh doanh,
quan hệ khách hàng, tín dụng.
3. Thực trạng nguồn nhân lực ngành
Ngân hàng
3.1. Thực trạng nguồn nhân lực làm
việc trong ngành Ngân hàng
Về số lượng nhân viên
Số liệu thống kê từ Ngân hàng Nhà
nước VN (NHNN) cho thấy nguồn nhân lực
ngành ngân hàng đã có bước phát triển
nhanh chóng trong giai đoạn vừa qua, cụ
70
KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019
Bảng 1. Số lượng nhân sự của một số Ngân hàng thương mại tại Việt Nam
từ năm 2013 – 2018
Đơn vị tính: người
Năm
Vietcombank
Vietinbank
BIDV
2013
13.864
2014
14.099
2015
14.755
2016
15.615
2017
16.227
2018
17.215
19.886
18.231
7.290
6.128
5.561
5.007
8.791
1.183
19787
19.130
7419
21024
24.000
7616
21061
25.088
7787
22.309
24888
8766
21.543
25.416
9.757
8.897
27.429
7.546
10340
4.985
Techcombank
MBBank
VPBank
SHB
6.939
9.501
5.553
9.296
1.910
7.810
12.927
6.083
9935
7892
8.129
23.826
6186
17.387
6.351
9.822
3.937
ACB
10.334
4.848
TPBank
2.800
(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo thường niên các Ngân hàng)
30,000
25,000
20,000
15,000
10,000
5,000
0
2013
2014
2015
2016
2017
2018
Hình 1. Số lượng nhân sự của một số Ngân hàng thương mại uy tín
tại Việt Nam từ năm 2013 – 2018
Bảng 1 cho thấy số lượng nhân sự của
tăng mạnh qua các năm. Trong đó,
Vietcombank có số lượng nhân sự tăng khá
ổn định. Từ năm 2015, Vietcombank duy trì
được mức tăng số lượng nhân sự khoảng 4%
đến 6% hàng năm. VPBank là ngân hàng có
tỷ lệ tăng nhân sự hàng năm rất cao trong số
các ngân hàng tác giả thống kê, năm 2014 tỷ
lệ tăng khoảng 70%, nhiều năm đạt tỷ lệ
trên 30%. Nhìn chung, nhu cầu tuyển dụng
nhân viên mới của ngân hàng vẫn còn khá
cao.
một số ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
Tác giả thống kê từ Báo cáo thường niên
của các ngân hàng trong danh sách Top 10
Ngân hàng thương mại Việt Nam uy tín năm
2019 do Công ty cổ phần Báo cáo Đánh giá
Việt Nam (Vietnam Report) bình chọn.
Riêng Agribank nằm trong danh sách nhưng
tác giả không lấy được số liệu nên loại bỏ
khỏi danh sách này.
Tổng quát chung, có thể thấy, số lượng
nhân viên của các ngân hàng có xu hướng
71
12/2019
KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG
OCB
7,081
8,299
9,480
Lienvietpost Bank
VPBank
MBBank
9,636
9,739
Techcombank
ACB
10,471
Vietcombank
Sacombank
Vietinbank
BIDV
17,848
17,891
22,164
23,244
20,000
-
5,000
10,000
15,000
25,000
Hình 2. Thống kê 10 ngân hàng thương mại có số nhân viên nhiều nhất tính đến 30/06/2019
(số liệu tính riêng Ngân hàng Mẹ)
Tính đến 30/06/2019, BIDV là ngân
hàng có số lượng nhân viên đông nhất hệ
thống với số lượng là 23.244 người, kế đến
là Vietinbank với số lượng 22.164 người. Số
lượng nhân viên ở mức khoảng 17 nghìn
người có thể kể đến Vietcombank và
Sacombank. Trong số 10 ngân hàng thương
mại có số lượng nhân viên nhiều nhất hệ
thống tính đến 3006/2019 còn có ACB,
Techcombank, MB Bank, VP Bank,
Lienviet post Bank và OCB với số lượng
nhân viên khoảng từ 7 nghìn đến 10
nghìn/ngân hàng.
động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm có
mức thu nhập bình quân lao động cao nhất
trong các ngành kinh tế với 21,6 triệu đồng,
khá cao so với mức thu nhập bình quân/lao
động của khu vực dịch vụ là 9,41 triệu đồng.
Khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 7,76
triệu đồng, tăng 8,5% (trong đó ngành sản
xuất và phân phối điện có mức thu nhập
bình quân đạt cao nhất với 16,1 triệu đồng);
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt
mức thấp nhất trong các khu vực kinh tế với
5,25 triệu đồng.
Theo khảo sát từ báo cáo tài chính
kiểm toán năm 2018 của hơn 20 ngân hàng,
thu nhập bình quân hàng tháng của nhân
viên dao động từ 12,37 triệu đồng đến 34
triệu đồng.
Về thu nhập nhân viên ngân hàng
Thống kê tại Sách Trắng Doanh nghiệp
Việt Nam năm 2019 do Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Tổng cục Thống kê vừa công bố cho
thấy, trong năm 2017, nhân viên ngành hoạt
72
KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019
Baoviet Bank
Saigon Bank
Lienvietpost Bank
ABBank
12.37
13
14.33
15
OCB
16.03
16.4
HDBank
Vietbank
SCB
17.14
17.23
17.47
17.54
17.58
17.88
18.3
Bắc Á Bank
SeABank
SHB
VPBank
Sacombank
Eximbank
ACB
19
20.5
22.16
22.88
23.93
25.16
25.89
Vietinbank
VIB
TPBank
BIDV
MBBank
Techcombank
Vietcombank
30
33.5
30
0
5
10
15
20
25
35
40
Hình 3. Thu nhập bình quân hàng tháng của nhân viên một số ngân hàng năm 2018
Đây là mức lương bình quân tính từ
Báo cáo tài chính kiểm toán, trong đó bao
gồm cả các chức danh từ ban lãnh đạo cho
đến nhân viên. Do vậy, thực tế số đông nhân
viên sẽ được nhận mức thu nhập thấp hơn
tuy nhiên vẫn là khá tốt so với mặt bằng
chung của nền kinh tế.
thuần/người/tháng và 31,5 triệu đồng lợi
nhuận trước thuế/người/tháng. Con số này
tại Techcombank là 98 triệu đồng lợi nhuận
thuần/người/tháng và 94 triệu đồng lợi
nhuận trước thuế/người/tháng. Như vậy đi
kèm với mức thu nhập cao, các nhân viên
ngân hàng cũng đang phải làm việc rất áp
lực và vất vả.
Về hiệu suất làm việc của nhân viên
ngân hàng
Tuy số lượng nhân viên ngân hàng
nhiều nhưng nguồn nhân sự ngân hàng
chất lượng chưa cao.
Đi cùng với mức lương cao thì áp lực
trong ngành Ngân hàng cũng rất lớn. Để đạt
được mức lương như trên, nhân viên ngân
hàng cũng phải thường xuyên làm thêm giờ
và đối diện với áp lực rủi ro lớn. Thống kê
số liệu từ báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm
cho thấy, Vietcombank vẫn đang dẫn đầu
với mức lợi nhuận ghi nhận trong 6 tháng
đầu năm lên tới 11.303 tỷ đồng, tăng trưởng
41% so với cùng kỳ. Tính ra, mỗi nhân viên
Vietcombank đã tạo ra 132,67 triệu đồng lợi
nhuận thuần/tháng và 102,58 triệu đồng lợi
nhuận trước thuế/tháng. Đứng thứ hai trong
hệ thống thuộc về nhân viên BIDV, mỗi
nhân viên tạo ra 102,2 triệu đồng lợi nhuận
Thứ nhất, thiếu hụt nhân sự một số lĩnh
vực chuyên môn cao. Một số lĩnh vực đang
thiếu hụt nhân sự như quản trị rủi ro, thanh
toán quốc tế, đầu tư quốc tế… nhưng nguồn
cung nhân sự chất lượng cho lĩnh vực này
không nhiều, nên việc tuyển dụng không dễ
dàng và hầu hết các đơn vị đều phải cạnh
tranh chế độ đãi ngộ để giữ chân người làm.
Thứ hai, thiếu hụt nhân sự vừa am hiểu
về tài chính vừa giỏi về công nghệ. Đây là
một vướng mắc hiện đang xảy ra tại các tổ
chức tín dụng. Nhân lực có kỹ năng chuyên
môn tài chính, ngân hàng chiếm trên 90%,
73
12/2019
KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG
nhưng thiếu các kỹ năng về IT và ngoại ngữ.
Lượng nhân sự giỏi về IT được tuyển dụng
bổ sung, nhưng lại không giỏi về chuyên
môn tài chính - ngân hàng dẫn tới lập trình
các ứng dụng sản phẩm, dịch vụ không hiệu
quả. Trong khi đó, do thiếu hụt về nguồn
cung, nhân sự khối công nghệ tài chính có
nhiều lựa chọn việc làm. Nhân sự khối này
hiện đang có mức thu nhập cao nhất ở các tổ
chức và cũng là khối nhân sự dễ dàng
chuyển việc từ tổ chức tín dụng này qua tổ
chức tín dụng khác, khiến các đơn vị liên
tục phải thiếu hụt và tìm kiếm ứng viên mới.
Thứ ba, nguồn nhân lực còn yếu về
nhân sự mới, đào tạo lại, tiếp nhận công việc
đảm bảo cho hoạt động của tổ chức vẫn diễn
ra liên tục và trôi chảy là một bài toán khó
đối với ngân hàng.
Thứ năm, vấn đề về mặt đạo đức của
nhân viên ngân hàng cũng cần được quan
tâm. Thời gian qua, xảy ra rất nhiều vụ có
ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế
trong lĩnh vực ngân hàng. Theo ý kiến của
Tổng Thanh tra Lê Minh Khái, tham nhũng
xảy ra nghiêm trọng, phức tạp, tinh vi, nhất
là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng; quản
lý, sử dụng đất đai; quản lý, khai thác tài
nguyên, khoáng sản và đầu tư công. 10 vụ
án lớn về kinh tế, tham nhũng và các vụ án
điển hình được đưa ra xét xử trong năm
2018 thì có đến 6 vụ án liên quan đến các
lãnh đạo cấp cao của ngân hàng, đó là chưa
tính đến các vụ án nhỏ liên quan đến một số
nhân viên ngân hàng.
kiến thức và kỹ năng. Nhận định về nguồn
nhân lực ngành ngân hàng, tại hội thảo do
Viện nhân lực ngân hàng tài chính tổ chức,
ông Trần Hữu Thắng, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ
chức cán bộ NHNN cho biết, nguồn nhân
lực ngân hàng hiện nay vừa thiếu vừa yếu,
chẳng hạn như mảng kiến thức bổ trợ (tin
học, ngoại ngữ) rất yếu; kiến thức kinh tế,
ngân hàng, giao tiếp hạn chế. Nhiều ngân
hàng thiếu đội ngũ quản trị điều hành, lãnh
đạo có trình độ chuyên môn, khả năng phân
tích, am hiểu luật pháp và độc lập xử lý các
vấn đề thực tế. Trình độ chuyên môn, khả
năng lập dự án, tầm nhìn chiến lược của đội
ngũ giám đốc chưa đáp ứng yêu cầu cạnh
tranh và hội nhập.
4. Nguyên nhân hạn chế
Chưa xây dựng được cụ thể chiến lược
nguồn nhân lực về dài hạn. Chiến lược phát
triển nguồn nhân lực của các Ngân hàng
chưa cụ thể hóa và gắn liền với chiến lược
phát triển của Ngân hàng. Tất cả các ngân
hàng đều có chiến lược phát triển của mình
nhưng chưa có chiến lược, chương trình
hành động cụ thể riêng về xây dựng nguồn
nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự phát
triển của ngân hàng gắn với định hướng phát
triển trong dài hạn. Thực tế cho thấy có rất
nhiều đợt tuyển dụng hàng loạt và cũng
nhiều đợt sa thải hàng loạt nhân viên trong
ngân hàng. Điều này cũng gây nên tâm lý
hoang mang cho chính nhân viên của ngân
hàng và cả thị trường lao động khi tiếp nhận
những thông tin này. Nhân viên cũng không
yên tâm để công tác và đóng góp vào sự
phát triển của Ngân hàng. Nguy hại nhất là
Thứ tư, mức độ gắn bó của nhân viên
ngân hàng với tổ chức thấp. Có thể thấy,
ngành Ngân hàng là ngành có mức độ nhảy
việc cao nhất trong các nền kinh tế. Điều
này ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân
lực chung của tổ chức. Bình quân khi tuyển
nhân sự mới, ngân hàng thường phải dành ít
nhất là 6 tháng đến 1 năm để đào tạo lại.
Khi nhân viên nghỉ việc, ngân hàng lại phải
vật vã, khổ sở lao vào vòng xoáy tuyển dụng
74
KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019
những tin đồn về việc sắp sa thải, tinh
kiếm một công việc khác và không chuyên
tâm vào công việc tại Ngân hàng.
giản… sẽ khiến các nhân viên lo lắng và tìm
1500
1000
500
0
-500
1136
1010
739
-138
-168
529
523
-307
-454
-1000
-1500
-2000
-2500
-1986
Hình 4. Thay đổi quy mô nhân sự các ngân hàng 30/06/2019 so với đầu năm 31/12/2018
Để giữ được lòng trung thành của nhân
Nguồn nhân lực được đào tạo còn thiếu
viên, các ngân hàng cũng cần xem xét lại
về kiến thức và kỹ năng, điều này một phần
chế độ làm việc và lương thưởng của nhân
đến từ chất lượng đào tạo trong trường đại
viên. Về cơ bản, nhân viên ngân hàng có thu
học và từ các em sinh viên. Một số chương
nhập khá cao. Dù vẫn còn thiếu hụt những
trình đào tạo còn mang tính hàn lâm và nặng
kỹ năng và kiến thức, nhưng nhân viên ngân
về lý thuyết, thiếu các nội dung ứng dụng và
hàng đã làm việc và mang lại lợi nhuận khá
thực hành. Trong khi đó, công việc trong
cao cho ngân hàng. Nhân viên ngân hàng
ngân hàng có mức độ phức tạp và đòi hỏi
làm việc dưới quá nhiều áp lực và cường độ
chuyên môn và thực hành phải thành thạo,
làm việc rất cao. Hầu hết các nhân viên
tuyệt đối chính xác. Tồn tại một độ chênh
ngân hàng đều phải làm việc quá thời gian
nhất định giữa lý thuyết và thực tiễn nên khi
quy định (8 giờ/ngày). Hơn nữa nhân viên
các sinh viên đi làm thì không thể tiếp cận
ngân hàng còn phải đối mặt với những rủi ro
được ngay với công việc.
lớn liên quan đến nghiệp vụ. Điều này làm
Nhân viên ngân hàng chậm thay đổi
suy giảm cả về thể chất và tinh thần của
theo công nghệ mới, ngại học hỏi nâng cao
nhân viên. Trong trường hợp chế độ lương
trình độ. Tồn tại một số đơn vị bộ máy nhân
thưởng đánh giá, khen thưởng không xứng
sự cồng kềnh và cũ. Đến từ lí do công việc
đáng, nhân viên sẽ có ý định chuyển sang
với cường độ cao và áp lực lớn thêm vào
nơi làm việc khác. Tuy nhiên, đôi khi việc
việc ngại học hỏi dẫn đến nhân viên ít cập
thay đổi công việc lại phụ thuộc vào chính
nhật các kiến thức mới, tiếp thu công nghệ
từ nhân viên.
mới. Các buổi đào tạo tập huấn trở thành
Đối với rủi ro đạo đức của nhân viên,
gánh nặng và trên tinh thần bắt buộc, chưa
bên cạnh những nguyên nhân chủ quan là sự
lôi kéo được nhân viên hứng thú và hăng
buông lỏng chất lượng tuyển dụng, đào tạo
say học hỏi.
và giám sát nhân viên ngân hàng làm phát
sinh rủi ro, còn có cả những nguyên nhân
75
12/2019
KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG
khách quan như áp lực về lãi suất và điều
kiện tiếp cận khoản vay, áp lực vay và trả nợ
vay và đôi khi là từ chính những quy định
pháp lý chưa rõ ràng trong hệ thống pháp
luật. Mức độ phong phú của dịch vụ ngân
hàng mang lại lợi ích cho xã hội và cộng
đồng, đồng thời cũng là cơ hội phát sinh
nhiều rủi ro hơn cho nhân viên ngân hàng.
5. Bộ môn Tài chính - Ngân hàng với mục
tiêu đào tạo sinh viên ngành đáp ứng yêu
cầu nguồn nhân lực cho các ngân hàng
trong thời kỳ công nghệ số
của các ngân hàng, tác giả đề xuất một số
kiến nghị như sau:
5.1.Xác định Chuẩn đầu ra của
ngành phù hợp với yêu cầu của các nhà sử
dụng lao động
Chuẩn đầu ra là yêu cầu tối thiểu về
kiến thức, kỹ năng, thái độ, trách nhiệm
nghề nghiệp mà người học đạt được sau khi
hoàn thành chương trình đào tạo, được cơ sở
đào tạo cam kết với người học, xã hội và
công bố công khai cùng với các điều kiện
đảm bảo thực hiện. Đây là những yêu cầu
mà sinh viên phải biết và phải làm được sau
khi tốt nghiệp. Do đó, để sinh viên ra trường
đáp ứng được các yêu cầu của thị trường lao
động, cần thiết và trước tiên cần xây dựng
chuẩn đầu ra phù hợp và bám sát với yêu
cầu của thị trường lao động. Xây dựng
chuẩn đầu ra không chỉ phù hợp tại thời hiện
tại mà cần có sự phân tích và dự đoán định
hướng sự phát triển ngành, sự thay đổi của
thị trường lao động trong tương lai. Chuẩn
đầu ra cần thường xuyên sửa đổi, bổ sung
hàng năm để cập nhật những thay đổi mới.
5.2.Xây dựng Chương trình đào tạo
đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao
động, theo hướng ứng dụng, tăng số lượng
các học phần thực hành
Trong thời đại số hóa ngày nay, các
nhà quản lý nguồn vốn có thể tăng cường
hiệu quả kinh doanh và thúc đẩy sự kết nối
trong doanh nghiệp thông qua việc nắm bắt
và áp dụng công nghệ mới. Đặc biệt, những
người đi trước trong việc tiên đoán về
những thay đổi sẽ sẵn sàng hơn để tạo ra
những giải pháp phù hợp cho tương lai.
Hơn nữa, theo ước tính của Standard
Chartered, việc sử dụng các máy gửi tiền tự
động sẽ làm giảm chi phí xử lý tiền mặt trên
tổng số tiền mặt cần được xử lý xuống xấp
xỉ 0.5% - 1% từ mức 2% - 2.5% (phương
pháp thu tiền truyền thống).
Nhận thức được vai trò của số hóa tiền
mặt, tại Việt Nam các ngân hàng thương
mại đã chủ động đầu tư, ứng dụng các công
nghệ mới; hợp tác với các công ty cung cấp
dịch vụ ví điện tử trong khu vực để hỗ trợ
các giao dịch thanh toán trên nền ví điện tử
ở thị trường nội địa cũng như các giao dịch
xuyên biên giới.
Dựa trên Chuẩn đầu ra được thiết lập,
xây dựng khung chương trình đào tạo với
cấu trúc các học phần phù hợp với yêu cầu
từ thị trường lao động. Nhà trường gắn kết
với nhà tuyển dụng trong hoạt động cập
nhật, cải tiến chương trình đào tạo, nâng cao
vai trò của nhà tuyển dụng lao động trong
việc đóng góp ý kiến và tham gia vào hoạt
động xây dựng chương trình đào tạo. Bộ
môn tăng cường các học phần thực hành, bổ
sung thêm các kiến thức thực tế, rèn luyện
các kỹ năng để sinh viên ra trường có đầy
Và cũng theo dự báo của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, nhu cầu nhân lực chất
lượng cao ngành tài chính ngân hàng vào
năm 2020 là 120.900 người, tăng gấp hai lần
so với năm 2016 (61.000 người). Để đào tạo
sinh viên ra trường đáp ứng được yêu cầu
76
KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019
đủ kiến thức và kỹ năng tham gia thị trường
lao động.
trường đại học cần có sự liên kết để xúc tiến
các khóa đào tạo theo chuẩn mực quốc tế,
đào tạo bài bản nhân sự khối ngành IT để
phát triển trong một hệ sinh thái nhân sự cho
tài chính số, ngân hàng số.
5.3.Đổi mới phương pháp giảng dạy
gắn Nhà trường với Ngân hàng trong công
tác đào tạo, tăng cường các học phần đáp
ứng yêu cầu thời đại mới
5.4.Về phương pháp học tập của sinh
viên
Nhiều năm qua, bộ môn Tài chính –
Ngân hàng đã có sự liên kết với các Ngân
hàng trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng.
Hàng năm, Nhà trường tổ chức các đợt thực
tập nhận thức và thực tập tốt nghiệp để đưa
các em sinh viên đến thực tập tại các Ngân
hàng. Tuy nhiên, các em chưa được tiếp
xúc, hướng dẫn sâu sát để có thể học hỏi và
tham gia trực tiếp vào các nghiệp vụ tại
Ngân hàng. Để các em sinh viên sau khi tốt
nghiệp có thể tham gia thành thạo các
nghiệp vụ tại ngân hàng, cần đẩy mạnh hơn
nữa hoạt động hợp tác giữa Nhà trường và
Ngân hàng. Nhà trường có thể trực tiếp liên
kết với Ngân hàng đầu mối. Từ đó, hàng
năm các em được thực tập theo các diện
được chú ý ở ngân hàng, được học việc, phụ
việc trong ngân hàng. Đối với mỗi học phần
tại trường, các em được thực hành trực tiếp
tại ngân hàng. Sau khi ra trường, sinh viên
được ưu tiên làm việc tại Ngân hàng đầu
mối. Các ngân hàng được tham gia vào quá
trình đào tạo sinh viên, tuyển dụng sinh
viên.
Chủ động học hỏi, nắm vững kiến thức
chuyên môn, ngoại ngữ, trao dồi kỹ năng
thái độ làm việc, khả năng sáng tạo, giao
tiếp và xử lý công việc.
Chủ động thích ứng công nghệ mới,
tăng cường tham gia các hội nhóm, các buổi
hội thảo, tọa đàm, trao đổi về khoa học công
nghệ, kiến thức mới.
Năng động, chịu khó, chăm chỉ trong
học tập và các hoạt động ngoại khóa, chủ
động tích cực trong các chương trình nhà
trường liên kết với các ngân hàng, công ty
tài chính như các buổi tham quan, thực tập,
tập sự,…
6. Lời kết
Phát triển nguồn nhân lực phục vụ
ngành ngân hàng là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm để ngành ngân hàng phát triển
bền vững và liên tục. Bộ môn Tài chính –
Ngân hàng, trường Đại học Kiến trúc Đà
Nẵng với sứ mệnh đào tạo cử nhân ngành
Tài chính – Ngân hàng có vai trò cần phải
đào tạo ra nguồn nhân lực đảm bảo cả chất
lượng và số lượng đảm bảo sự phát triển
vững mạnh ngành.
Nhà trường cần phải thay đổi phương
pháp đào tạo ngành tài chính ngân hàng để
đáp ứng yêu cầu thời đại mới, ứng dụng tốt
công nghệ trong đào tạo sinh viên, đưa vào
chương trình các môn học và khuyến khích
thành lập các câu lạc bộ chuyên về công
nghệ mới để hình thành môi trường trao đổi
kiến thức, các nội dung cơ bản như: tổng
quan về fintech, thị trường, đồng tiền và các
giao dịch trong tương lai với ứng dụng. Các
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Kế hoạch Đầu tư, “Sách trắng
Doanh nghiệp Việt Nam năm 2019”,
NXB Thống Kê
[2]. Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Văn Thọ
(2014), “Biến động nhân lực ngành
77
12/2019
KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG
ngân hàng tại VN - thực trạng và giải
[4]. Báo cáo thường niên các ngân hàng từ
năm 2013 đến năm 2018 lấy tại website
vietstock.com.vn
pháp”, Tạp chí Cộng sản.
[3]. Quyết định phê duyệt quy hoạch phát
triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011
– 2020 của Thủ tướng chính phủ ngày
22/07/2011
[5]. Website Tổng cục Thống kê:
78
Bạn đang xem tài liệu "Bộ môn Tài chính – ngân hàng trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của Ngân hàng hiện đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- bo_mon_tai_chinh_ngan_hang_truong_dai_hoc_kien_truc_da_nang.pdf