Giáo trình Cơ sở an toàn thông tin

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI  
Cơ sở An toàn Thông  
tin  
Sách Giáo trình  
Nguyễn Khanh Văn  
Hà ni - 2014  
Cơ sở An toàn Thông tin – 2014  
Nguyễn Khanh Văn – Đại học Bách Khoa Hà Nội  
1
Cơ sở An toàn Thông tin – 2014  
Nguyễn Khanh Văn – Đại học Bách Khoa Hà Nội  
2
Cơ sở An toàn Thông tin – 2014  
Nguyễn Khanh Văn – Đại học Bách Khoa Hà Nội  
3
Cơ sở An toàn Thông tin – 2014  
Nguyễn Khanh Văn – Đại học Bách Khoa Hà Nội  
4
Cơ sở An toàn Thông tin – 2014  
7.5.1 Mô hình cơ sở RBAC0 .............................................................................148  
7.5.1 Mô hình cơ sở RBAC1 .............................................................................149  
Nguyễn Khanh Văn – Đại học Bách Khoa Hà Nội  
5
Cơ sở An toàn Thông tin – 2014  
Nguyễn Khanh Văn – Đại học Bách Khoa Hà Nội  
6
Cơ sở An toàn Thông tin – 2014  
Nguyễn Khanh Văn – Đại học Bách Khoa Hà Nội  
7
Cơ sở An toàn Thông tin – 2014  
Lời Mở Đầu  
Với sự phát triển bùng nổ hiện nay của công nghệ thông tin và ứng dụng trong  
đời sống, đặc biệt là các hệ thống mạng truyền tin và các hệ thống thƣơng mại điện tử,  
các vấn đề về an toàn và bảo mật trở nên có tầm quan trọng thời sự. Trƣớc kia mục  
đích chủ đạo trong thiết kế một hệ thống thông tin là làm sao cho hệ thống đƣợc đảm  
bảo các chức năng làm việc, chạy tốt, ít lỗi và dễ phát triển, dễ kết nối với các hệ thống  
khác. Riêng các vấn đề này cũng đủ làm đau đầu các nhà thiết kế, vì thế an toàn bảo  
mật là mối quan tâm thứ yếu (mặc dù vẫn đƣợc nêu cao trong giấy tờ). Tuy nhiên với  
xu hƣớng xích lại gần nhau của cả thế giới, công việc của mỗi cơ sở mỗi doanh nghiệp  
không còn là việc “bếp núc của từng nhà” nữa. Các mạng truyền thông diện rộng đã  
cho mỗi cơ quan tổ chức mở cửa kết nối, giao tiếp với các cơ sở bạn bè khắp nơi nhƣng  
cũng vì thế mà tạo cơ hội cho các hàng xóm “thù địch" thƣờng xuyên tìm cách "dòm  
ngó" và "quấy phá". Câu hỏi ngƣợc bây giờ là liệu một hệ thống thông tin có đáng  
đƣợc đánh giá cao hay không nếu nó không đƣợc bảo vệ để chống lại đủ mọi loại tấn  
công và xâm nhập của kể cả kẻ địch bên ngoài lẫn gián điệp bên trong? Với nhiều hệ  
thống quan trọng, thực sự bài toán an toàn bảo mật đƣợc đặt lên hàng đầu với chi phí  
lên tới 60% chi phí tổng thể. Qua đó chúng ta thấy một nhiệm vụ thƣờng xuyên của các  
kỹ sƣ tin học là nắm vững và trau dồi các kiến thức về an toàn bảo mật thông tin, nhằm  
hƣớng tới thiết kế và xây dựng các phần mềm tốt hơn, an toàn hơn.  
Giáo trình “Cơ sở An toàn Thông tin” này đƣợc soạn cho đối tƣợng là sinh viên  
các đại học kỹ thuật của các năm cuối và có thể sử dụng cho cả năm đầu cao học. Tác  
giả hy vọng thông qua giáo trình này sẽ cung cấp một tiếp cận tổng thể tới các khái  
niệm cơ bản về các vấn đề xung quanh bảo vệ các hệ thống tin học (HTTH). Đồng thời  
các kiến thức cụ thể về các lĩnh vực riêng trong an toàn và bảo mật máy tính (computer  
securrity) cũng đƣợc giới thiệu ở mức độ tiêm cận chuyên sâu; qua đó ngƣời đọc có  
đƣợc một hình dung cụ thể tuy còn chƣa đầy đủ toàn diện về các chủ đề nghiên cứu  
chính trong lĩnh vực.  
Trong khuổn khổ của một giáo trình cơ sở, tác giả sẽ tập trung vào diễn giải cặn  
kẽ những kiến thức cơ bản và then chốt, với mức ƣu tiên cao hơn so với các kỹ thuật  
chuyên sâu hơn và các phần mở rộng. Tác giả đặc biệt chú ý tới việc trình bày kỹ lƣỡng  
các kiến thức cơ bản của lý thuyết mật mã, một lĩnh vực khó đối với các học viên  
ngành CNTT, thông qua một tiếp cận mang tính truyền thống, nhƣng vẫn có tính hiện  
Nguyễn Khanh Văn – Đại học Bách Khoa Hà Nội  
8
 
Cơ sở An toàn Thông tin – 2014  
đại thể hiện qua việc liên tục kết nối với các bài toán thực tế hiện nay. Những vấn đề  
đƣợc chọn trình bày kỹ lƣỡng đều thuộc về cơ sở của lĩnh vực, những phần mang tính  
nâng cao thƣờng đƣợc điểm qua hoặc đƣa ra nhƣ những câu hỏi bài tập mở rộng.  
Về lý thuyết mật mã, một nền tảng căn bản của an toàn thông tin (ATTT), các  
khái niệm cơ bản sẽ đƣợc đề cập bao gôm: hệ mã hoá đối xứng, mã hoá phi đối xứng  
(khóa công khai), hàm băm, chữ ký điện tử... Các mô hình phát triển hơn sẽ đƣợc giới  
thiệu là vấn đề trao chuyển khoá và giao thức mật mã (cryptographic protocol). Bên  
cạnh đó các nền tảng cơ sở khác của ATTT nhƣ xác thực (authentication), điều khiển  
quyền truy nhập (access control), các mô hình an toàn mạng, mã độc và tấn công lợi  
dụng cũng là các chủ đề trọng tâm.  
Giáo trình này đƣợc đƣa xuất bản lần đầu nên không tránh khỏi những khiếm  
khuyết nhất định, tuy nhiên nó cũng là kết quả của sự tổng hợp các kiến thức và kinh  
nghiệm của nhiều năm giảng dạy của tác giả tại Đại học Bách Khoa Hà nội về chủ đề  
An toàn thông tin (bắt đầu từ năm 1998). Đặc biệt, do tính gấp rút của thời gian, một  
số phần trình bày là tài liệu giảng dạy đã đƣợc viết từ những năm 1998-2000, nên nội  
dung có thể chƣa hoàn toàn cập nhật, hoặc cô đọng hơn các phần khác, thiếu các diễn  
giải chi tiết, nhiều vấn đề chỉ nêu mà chƣa minh hoạ. Chúng tôi hy vọng sẽ bổ sung và  
làm tốt hơn trong các lần tái bản sau.  
Mong thu nhận đƣợc thật nhiều ý kiến đóng góp cụ thể của các bạn độc giả. Ý  
kiến gửi về xin chuyển qua địa chỉ cơ quan hoặc các địa chỉ E-mail sau:  
TS. Nguyễn Khanh Văn  
601- nhà B1, Bộ môn Công nghệ Phần mềm  
Viện Công Nghệ Thông tin & Truyền Thông  
Đại học Bách Khoa Hà nội, 1 Đại Cồ Việt, Hà nội, Việt nam  
Xin Cám Ơn Bạn Đọc!  
Nguyễn Khanh Văn – Đại học Bách Khoa Hà Nội  
9
Cơ sở An toàn Thông tin – 2014  
Chƣơng Mở Đầu  
TỔNG QUAN VỀ AN TOÀN THÔNG TIN VÀ GIỚI  
THIỆU GIÁO TRÌNH  
An toàn thông tin (ATTT) đang phát triển nhanh chóng, trở thành một chuyên  
ngành lớn của Khoa học Máy tính hay Công nghệ Thông tin nói chung. Đào tạo ở mức  
chuyên gia về an toàn thông tin trong chƣơng trình đại học có lẽ đòi hỏi một nhóm các  
môn riêng, hay một chƣơng trình chuyên ngành riêng; ở nƣớc ta cũng đã có nơi có  
trƣờng đại học tổ chức bộ môn An toàn thông tin. Trong một chƣơng trình đại học  
chung cho Công nghệ Thông tin, kiến thức nền tảng về An toàn thông tin đã trở nên  
một trong những cơ sở căn bản không thể thiếu đƣợc. Tuy nhiên có những khó khăn  
nhất định trong việc thiết kế một môn cơ sở bao hàm chung các kiến thức cần thiết của  
ATTT.  
Các vấn đề cụ thể của ATTT nhƣ an ninh mạng, an toàn phần mềm nói chung  
hay ứng dụng web, … đã trở thành những vấn đề nóng, thƣờng ngày ở các công ty tin  
học. Vì vậy các công ty chờ đợi mỗi một kỹ sƣ tin học loại khá phải nắm vững đƣợc  
cách tiếp cận và giải quyết sao cho phù hợp thực tế và hiệu quả. Đặc biệt là ngƣời kỹ  
sƣ chuyên gia cần nắm đƣợc lĩnh vực với cách nhìn phân tích đầy đủ theo tiếp cận trên-  
xuống (top-down). Điều này đáng tiếc là kiến thức cơ sở bậc đại học không thể giúp  
ngay đƣợc.  
Theo truyền thống của học thuật nói chung và giảng dạy đại học nói riêng, các  
sách giáo khoa và chƣơng trình môn học thƣờng đƣợc xây dựng theo tiếp cận dƣới-lên  
(bottom-up). Trong đó, các kiến thức cơ sở thuần túy học thuật thƣờng đƣợc giới thiệu  
trƣớc; chỉ khi các kiến thức cơ sở (phần lớn mang tính hàn lâm, khoa học) đã đƣợc giới  
thiệu bài bản, các chủ đề mang tính ứng dụng, giải quyết các bài toán nảy sinh trực tiếp  
từ thực tế mới có thể đƣợc trình bày, nhằm giải quyết thấu đáo và cung cấp cơ sở lập  
luận khoa học chặt chẽ cho các giải pháp. Tuy nhiên do thời lƣợng chƣơng trình là khá  
ngắn so với khối lƣợng kiến thức cơ sở (mang tính hàn lâm) yêu cầu bắt buộc, phần  
chủ đề nâng cao, mang tính hƣớng thực tế, ứng dụng thƣờng trở nên eo hẹp, lép vế, khó  
đem lại sức sống thực tế nhƣ mong muốn.  
Nguyễn Khanh Văn – Đại học Bách Khoa Hà Nội  
10  
   
Cơ sở An toàn Thông tin – 2014  
Qua quá trình giảng dạy tƣơng đối lâu năm, chúng tôi nhận thức rõ những bất  
cập trên. Thậm chí với xu hƣớng chung là sự phát triển nhanh của lĩnh vực và tính  
nóng của nó, khó có một tiếp cận hợp lý, đẹp đẽ để thỏa mãn cả 2 xu hƣớng yêu cầu  
này. Nhiệm vụ của chƣơng mở đầu này chính là nhằm để phần nào giải quyết bất cập  
này, đƣa ra một bức tranh chung tƣơng đối phù hợp vừa cho thấy sự cần thiết phải nắm  
đƣợc nhu cầu thực tế về ATTT (tiếp cận trên-xuống) vừa giới thiệu khái quát về  
phƣơng thức hàn lâm truyền thống mà giáo trình này đi theo (tiếp cận dƣới-lên).  
Chƣơng mở đầu này đƣợc thể hiện trong hai phần với mục đích ứng tạo sự nối  
ghép nói trên. Trong phần thứ nhất, chúng ta làm quen với các khái niệm khái quát  
chung để có một cái nhìn tổng thể về lĩnh vực. Để có một cái nhìn bao quát ta sẽ thử  
thâm nhập vào lĩnh vực trong vai trò như một chuyên gia cấp cao, một kiến trúc sƣ an  
toàn thông tin, ngƣời có trách nhiệm phải xây dựng một giải pháp an toàn tổng thể cho  
một hệ thống tin học. Với cách tiếp cận này, ngƣời đọc sẽ đƣợc trang bị một tầm nhìn  
bao quát, dần phát triển khả năng đọc các tình huống thực tế, và trên cơ sở đó có thể  
chủ động liên hệ các kiến thức học thuật và kỹ thuật cụ thể ở các chƣơng sau vào các  
bài toán thực tế. Đây chính là cách nhìn theo tiếp cận trên-xuống yêu cầu khi làm thực  
tế đã nói ở trên.  
Phần sau của chƣơng sẽ mô tả một bức tranh tổng quan về nền tảng học vấn cơ  
sở mà một sinh viên tốt nghiệp đại học kỹ thuật cần trang bị về an toàn thông tin.  
Chúng tôi sẽ giới thiệu với bạn đọc về các nền tảng học thuật cơ sở của an toàn thông  
tin ở dạng khái quát nhất. Bên cạnh đó, chúng tôi thể hiện quan điểm xây dựng giáo  
trình và giới thiệu các nội dung trình bày chính của giáo trình. Qua đó chúng tôi sẽ có  
cơ hội chia sẻ những lý do về cách xây dựng và tầm quan trọng của các khối kiến thức  
đƣợc chọn lựa để đƣa vào giáo trình cơ sở này.  
Theo quan điểm riêng của chúng tôi, sự có mặt của chƣơng Mở đầu này sẽ đem  
lại lợi ích nhiều nhất cho các bạn đọc tự học, giúp các bạn mặc dù thiếu tiếp xúc với  
môi trƣờng chuyên môn, thầy giáo, vẫn có thể tự tìm tòi đƣợc những mối liên hệ của  
những kiến thức cơ sở hàn lâm với các bài toán cụ thể thực tế.  
A. MỘT TIẾP CẬN KHÁI QUÁT & TỔNG THỂ TRONG XÂY  
DỰNG MỘT GIẢI PHÁP ATTT  
Chúng ta hãy tìm hiểu khái niệm "bảo vệ hệ thống". Ở đây ta có thể đặt ra một  
số câu hỏi nhƣ: “Hệ thống là gì?”, “Cái gì trong hệ thống cần phải bảo vệ?”, “Bảo vệ  
khỏi cái gì?” và “Bảo vệ bằng cách nào?”. Có thể trả lời tóm tắt nhƣ sau. Ở đây đối  
tƣợng hệ thống chủ yếu ta quan tâm là các hệ thống thông tin (HTTT), với các tài sản  
Nguyễn Khanh Văn – Đại học Bách Khoa Hà Nội  
11  
 
Cơ sở An toàn Thông tin – 2014  
(assets) cần phải bảo vệ để chống lại những mối đe dọa những mối đe doạ (threats),  
thông qua các biện pháp ngăn chặn (BPNC), tức là các công cụ điều khiển (control).  
Hiệu quả của các BPNC đƣợc đánh giá thông qua chi phí (cost) của chúng và kết quả  
thu đƣợc. Chúng ta hãy điểm qua ý nghĩa cụ thể của các khái niệm này.  
Tài sản: Hệ thống máy tính là một tập hợp gồm các thành phần của phần cứng, phần  
mềm dữ liệu. Mỗi thành tố là một tài sản cần bảo vệ. Nhƣ vậy tài sản ở đây có thể là  
thiết bị, chƣơng trình cài đặt và các dữ liệu làm việc đƣợc tích lũy qua thời gian.  
Mối đe doạ: là khả năng có thể bị tấn công, bị khai thác vào những điểm yếu của hệ  
thống. Có 3 hình thức chính nhƣ sau  
Phá hoại: trong đó một tài sản nào đó bị làm mất giá trị. Ví dụ nhƣ: phá hỏng một  
thiết bị phần cứng hay xoá một chƣơng trình cài đặt.  
Can thiệp (interrception): tài sản bị truy nhập trái phép bởi những ngƣời không có  
thẩm quyền. Ví dụ: nghe trộm trên mạng (wiretapping network), sao chép trái  
phép. Những tấn công này thông thƣờng rất khó phát hiện.  
Sửa đổi: các tài sản bị sửa đổi, đánh tráo trái phép. Ví dụ: sửa đổi dữ liệu trong các  
CSDL hoặc đang trên đƣờng truyền qua mạng.  
Các thiệt hại gây ra bởi các tấn công đối với phần mềm và dữ liệu có thể dễ dàng  
phát hiện thông qua các dấu hiện nhƣ việc chƣơng trình treo khi chạy hoặc dữ liệu  
hỏng. Tuy nhiên cũng có khi rất khó phát hiện khi đối phƣơng cố tình không để lại dấu  
vết (trƣờng hợp các virus "mìn hẹn giờ"). Những loại này có thể phát hiện đƣợc do  
những các hiệu ứng hãy bằng các chƣơng trình kiểm tra thƣờng xuyên.  
Vậy một chuyên gia chủ trì xây dựng một giải pháp ATTT cho một hệ thống tin  
học của một doanh nghiệp cụ thể, sẽ cần phải thực hiện các bƣớc công việc nhƣ thế  
nào? Trƣớc nhất, chuyên gia này cần phân tích khảo sát và nắm vững các mục tiêu cụ  
thể của bài toán ATBM cho hệ thống của mình.  
A.1 Mục tiêu và nguyên tắc chung cuả ATBM (an toàn & bảo mật -  
security)  
Có ba mục tiêu cơ bản của an toàn và bảo mật (ATBM) các hệ thống tin học:  
1. Đảm bảo tính bí mật (Cofidentiality): đảm bảo tài sản không thể bị truy nhập  
trái phép bởi những ngƣời không có thẩm quyền.  
2. Đảm bảo tính nguyên vẹn (Intergrity): đảm bảo tài sản không thể bị sửa đổi,  
bị làm giả bởi những ngƣời không có thẩm quyền.  
Nguyễn Khanh Văn – Đại học Bách Khoa Hà Nội  
12  
 
Cơ sở An toàn Thông tin – 2014  
3. Tính khả dụng, hay sẵn dùng (Availability): đảm bảo tài sản là sẵn sàng để  
đáp ứng sử dụng cho ngƣời có thẩm quyền  
Một giải pháp ATBM xây dựng cần nhằm đạt đƣợc cả 3 mục tiêu cơ bản trên  
một cách hài hòa. Cần phân biệt sự khác biệt giữa tính mật và tính nguyên vẹn. Có  
những tấn công phá vỡ tính nguyên vẹn nhƣng không phá vỡ tính mật và ngƣợc lại.  
Nếu ta gửi thông tin trên đƣờng truyền mạng công cộng mà có kẻ bên ngoài xem lén  
đƣợc (qua việc tóm và đọc các gói tin gửi qua các nút trung gian thuộc địa phận ta  
không kiểm soát đƣợc), đó là tính mật đã bị vi phạm. Nếu kẻ gian can thiệp sửa đổi, dù  
chỉ 1 bit trên những gói tin này (mặc dù chúng có thể không đọc hiểu đƣợc), và ngƣời  
nhận tin không phát hiện ra sự thay đổi đó, thì tính nguyên vẹn đã bị xâm phạm. Mặc  
dù ta không thể ngăn chặn việc sửa đổi tùy tiện khi các gói tin đi qua các điểm trung  
gian không thuộc quyền kiểm soát, nếu ta phát hiện đƣợc (ở phía máy nhận) sự thay  
đổi trái phép, thì ta có thể yêu cầu phát lại cho đúng. Nhƣ vậy tính nguyên vẹn vẫn  
đƣợc coi là đảm bảo. Tính khả dụng bị vi phạm khi kẻ thù hay kẻ tấn công tìm cách  
ngăn chặn sự truy nhập dịch vụ của một hệ thống, làm tập thể ngƣời dùng bị khó khăn  
hoặc bị từ chối liên tục trong việc kết nối hay khai thác dịch vụ. Ví dụ điển hình nhất là  
trƣờng hợp hệ thống bị tấn công từ chối dịch vụ (DoS: denial-of-service), sẽ đƣợc  
nghiên cứu chi tiết ở chƣơng 8. Chúng ta có thể đƣa ra rất nhiều ví dụ thực tế để minh  
họa (sẽ nêu và phân tích thêm sau này). Các kỹ thuật mật mã là các công cụ cơ bản  
nhằm xây dựng dịch vụ đảm bảo tính mật và tính nguyên vẹn.  
A.2 Phân loại các đe dọa  
Để đƣa ra giải pháp đảm bảo các mục tiêu căn bản nói trên, nhà thiết kế giải  
pháp phải phân tích tìm hiểu tất cả các mối đe dọa có thể xảy ra đối với HTTT của  
mình, dựa trên hiểu biết chung về các loại đoe dọa cơ bản. Có 4 loại cơ bản sau:  
Bóc tin mật (disclosure): kẻ tấn công tìm cách “nghe” lén/trộm (snooping) các  
thông tin mật, thƣởng là thông qua kỹ thuật tóm bắt các gói tin gửi qua các điểm  
trung gian.  
Lừa đảo (deception): kẻ tấn công can thiệp thay đổi các thông tin làm ngƣời nhận  
hiểu nhầm hoặc xử lý nhầm, gây ra thiệt hại hoặc quyết định sai. Các tấn công cụ  
thể thƣờng gọi là: sửa đổi (modification), cắt ghép (spoofing), từ chối phát, từ chối  
nhận …  
Gián đoạn (disruption): kẻ tấn công sửa đổi thông tin điều khiển làm hệ thống nạn  
nhân bị gián đoạn, phần nào rối loạn.  
Nguyễn Khanh Văn – Đại học Bách Khoa Hà Nội  
13  
 
Cơ sở An toàn Thông tin – 2014  
Chiếm đoạt (usurpation): kẻ tấn công sửa đổi thông tin điều khiển qua đó cƣớp  
đoạt quyền điểu khiện hệ thống hoặc phá hỏng hay làm ngừng trệ hệ thống  
Trong các loại tấn công nói trên lại có nhiều dạng tấn công cụ thể, hoặc mô hình  
cụ thể khác nhau. Các dạng tấn công bóc tin mật thƣờng là thụ động, tức là kẻ địch  
không sửa đổi thông tin. Các dạng tấn công khác, chủ động tác động lên thông tin và  
dữ liệu, thƣờng là nguy hiểm hơn, tùy vào mức độ tác động. Thậm chí kẻ địch có thể  
tác động lên thông tin để tìm cách thao túng toàn bộ kênh thông tin mà các bên tham  
gia liên lạc không hề biết. Điển hình nhất là sơ đồ tấn công kẻ-ngồi-giữa (the-man-in-  
the-middle attack), trong đó kẻ tấn công nham hiểu, có khả năng xen vào giữa hai bên  
A và B, bóp méo thông tin gửi từ cả hai phía mà không để lộ ra. Cơ chế bóp méo hai  
phía này là rất nham hiểm, khiến cho cả hai bên không thể nhận ra, vì hai sự bóp méo  
từ hai phía là rất khớp nhau, không để xảy sai lệch.  
Để đảm bảo bao quát hết các mối đe dọa và có giải pháp chắc chắn, cần lƣu ý  
hai nguyên tắc quan trọng trong đánh giá phân tích các mối đe dọa:  
Phải tính đến tất cả các khả năng mà kẻ địch có thể thâm nhập. Kẻ địch thƣờng thử  
mọi cách có thể đƣợc để hòng thâm nhập phá hoại cho nên không đƣợc phép giả sử  
rằng kẻ sẽ tấn công chỉ ở một số điểm này mà không ở những chỗ khác, nói cách  
khác phải đề phòng cả những khả năng khó tin nhất. Nguyên tắc này làm cho việc  
thẩm định về bảo mật trở nên rất khó, do tất cả các khả năng bị phá hoại phải đƣợc  
tính đến.  
Tài sản phải đƣợc bảo vệ cho đến khi hết giá trị sử dụng hoặc hết ý nghĩa mật.  
Nếu chúng ta không đứng vững trƣớc các loại tấn công trên, nhiều thiệt hại  
trong hệ thống máy tính có thể xảy ra:  
1. Xoá: kẻ địch xoá tệp dữ liệu quan trọng hoặc sao chép đè.  
2. Sửa đổi:  
- Sửa đổi chƣơng trình có thể gây ra chƣơng trình bị treo ngay lập tức hoặc một  
thời điểm nào đó sau này (logic bomb -"mìn hẹn giờ"). Hoặc là nó có thể khiến cho  
chƣơng trình hoạt động và tạo ra những hiệu ứng không trong thiết kế, chẳng hạn nhƣ  
sửa đổi trái phép quyền truy nhập.  
- Sửa đổi dữ liệu có thể gây ra bằng nhiều hình thức: nhồi nhét để chế biến các  
thông báo giả (salami attack).  
3. Can thiệp: Ăn trộm chƣơng trình, dữ liệu. Phá hoại tính bí mật của các dữ liệu thông  
qua cá phƣơng pháp nghe trộm (wiretaping, monitoring, electromagnetic radiation...)  
Nguyễn Khanh Văn – Đại học Bách Khoa Hà Nội  
14  
Cơ sở An toàn Thông tin – 2014  
Rất khó phát hiện những xâm phạm vào tính nguyên vẹn của tài sản vì chƣơng  
trình/dữ liệu không hề bị thay đổi mà chỉ bị lộ bí mật.  
Truyền dự liệu giữa các điểm phân tán dễ làm bộc lộ dữ liệu, tạo nên nhiều  
điểm tấn công cho những kẻ xâm nhập để sửa đổi dữ liệu.  
Chia sẻ tài nguyên và điều khiển truy nhập trở nên một vấn đề hóc búa.  
A.3 Chính sách và cơ chế  
Khởi nguồn của một giải pháp ATTT là việc xây dựng một bộ chính sách. Chính  
sách (policy) là một phát biểu ở mức khái quát, qui định những điều nên làm và không  
nên làm. Một định nghĩa khái quát về giải pháp ATTT chính là tập hợp các chính sách  
xây dựng nó. Chính sách này đƣợc xây dựng trên cơ sở đã khảo sát phân tích kỹ các  
mối đe dọa tiềm năng. Chính sách chỉ là một phát biểu chỉ ra sự yêu cầu, mong muốn  
của lãnh đạo tổ chức. Tự nó không thực hiện đƣợc chính nó, mà cần một cơ chế  
(mechanism) hoạt động, cài đặt cụ thể để có thể áp đặt những yêu cầu, mong muốn này  
vào đời sống công việc hàng ngày của tổ chức và hệ thông thôn tin của nó. Cơ chế thể  
hiện một hệ thống qui định chi tiết, trong đó bao gồm những qui định kỹ thuật và  
những qui định mang tính thủ tục.  
Thông thƣờng đƣa ra tập chính sách không phải là một cá nhân nào đó, mà (và  
nên) là một hội đồng, qui tụ các chuyên gia và lãnh đạo quản lý, không chỉ trong giới  
hạn chuyên môn công nghệ thông tin mà còn các mảng khác nhƣ nghiệp vụ, tài chính,  
quản lý, nhân sự. Tức là mọi mặt hoạt động của công ty, vì an ninh thông tin chung sẽ  
ảnh hƣởng và bị ảnh hƣởng tới mọi khía cạnh, góc độ trong một hệ thống doanh  
nghiệp, tổ chức. Chính sách có thể biểu đạt bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, có thể  
bằng các mệnh đề toán học, chính xác cao nhƣng khó hiểu, hoặc ngôn ngữ tự nhiên, dễ  
hiểu nhƣng dễ gây nhập nhằng, thiếu chính xác. Vì vậy ngƣời ta đã thiết kế công cụ  
riêng, đƣợc gọi là ngôn ngữ chính sách (policy languages) để đảm bảo sự cân bằng  
giữa tính chính xác và sự dễ hiểu.  
Vì có thể đƣợc tạo ra từ nhiều nguồn gốc, nhiều quan điểm của nhiều chuyên gia  
lĩnh vực khác nhau, các chính sách có thể mâu thuẫn nhau, dẫn tới khó khăn trong việc  
tích hợp chung vào hệ thống. Sự vênh nhau trong chính sách có thể dẫn tới những điểm  
yếu, những “lỗ hổng” tiềm năng mà một kẻ đối địch có thể khai thác để tấn công.  
Những điểm yếu hay “lỗ hổng” này thƣờng đƣợc gọi là điểm dễ bị tổn thƣơng, nhạy  
cảm về ATBM (security vulnerability). Vì vậy trong việc xây dựng chính sách, khâu  
tích hợp cần đƣợc làm rất cẩn thẩn để phát hiện và giải quyết các bất đồng có thể nảy  
sinh giữa các chính sách (thƣờng tạo ra bởi các chuyên gia ở lĩnh vực khác nhau).  
Mục đích chung của giải pháp an toàn thông tin chính là bảo vệ hệ thống, mà nói  
cho cùng chính là bảo vệ sự toàn vẹn của các chính sách an toàn, không để cho chúng  
bị vi phạm. Dƣới góc độ này, chúng ta có thể thấy 3 mục tiêu cụ thể là: 1) phòng chống  
không cho kẻ tấn công có thể vi phạm (đấy là lý tƣởng nhất); 2) phát hiện tấn công vi  
Nguyễn Khanh Văn – Đại học Bách Khoa Hà Nội  
15  
 
Cơ sở An toàn Thông tin – 2014  
phạm (càng sớm càng tốt); và 3) khôi phục sau tấn công, khắc phục hậu quả: sau khi  
đẩy lùi tấn công, khắc phục tình hình, khôi phục sự đảm bảo của các chính sách.  
A.4 Kiểm tra và Kiểm soát  
Chỉ có chính sách và cơ chế là chƣa đủ vì trong thực tế, một cơ chế xây dựng  
nên có đáp ứng tốt hoặc tồi cho việc đảm bảo áp đặt đƣợc chính sách đó. Ta cần phải  
có công cụ kiểm tra, đánh giá độ đáp ứng của cơ chế đối với việc áp đặt chính sách, tức  
là trả lời câu hỏi “liệu có thể tin đến mức độ nào khả năng một hệ thống có đáp ứng  
đúng những yêu cầu đặt ra cho nó?”. Công cụ kiểm trả và kiểm soát (assurance) sẽ cho  
phép ta điều khiển tốt hơn việc đồng khớp đƣợc chính sách và cơ chế. Để làm đƣợc  
điều này, các kỹ thuật tiêu biểu của công nghệ phần mềm có thể đƣợc áp dụng trong  
toàn bộ quá trình xây dựng giải pháp phần mềm; đó là các bƣớc kỹ thuật: xây dựng đặc  
tả (specification), thiết kế (design) và cài đặt (implementation).  
Đặc tả là một kỹ thuật đi liền với pha phân tích yêu cầu (requirement analysis)  
trong công nghệ phần mềm. Các yêu cầu ở đây chính là các chính sách (thƣờng phát  
biểu ở dạng khái quát) và các đặc tả sẽ cho phép mịn hóa các yêu cầu thành các yêu  
cầu nhỏ hơn, các bƣớc công việc với yêu cầu riêng phải làm để thỏa mãn đƣợc 1 yêu  
cầu khái quát của chính sách. Các đặc tả cũng có thể đƣợc biểu đạt đƣợc bằng cả 2  
ngôn ngữ, hình thức (mệnh đề toán học) và phi hình thức (ngôn ngữ tự nhiên), và cũng  
có thể ở các cấp độ khác nhau của khái quát (high-level) hay chi tiết, cụ thể (low-level).  
Đặc tả khái quát thƣờng dùng cho mô tả hệ thống chung hoặc các modul phân hệ lớn,  
còn đặc tả chi tiết áp đụng cho các mo-dul, thành tố nhỏ bên trong.  
Thiết kế là công việc đƣa ra các kiến trúc, các mô hình cài đặt nhằm đảm bảo hệ  
thống hoạt động đúng theo yêu cầu của đặc tả. Thông thƣờng bản thiết kế là một tập  
hợp các sơ đồ thể hiện việc giải quyết theo từng mức trừu tƣợng. Ban đầu hệ thống  
đƣợc nhìn nhƣ một sơ đồ khái quát cao, sau đó sẽ đƣợc làm mịn dần bằng các sơ đồ bộ  
phận chi tiết hơn, có mức trừu tƣợng thấp dần, cho đến khi đạt mức chi tiết có thể sử  
dụng trực tiếp cho việc lập trình tạo mã cho hệ thống máy tính. Việc cài đặt là sự hiện  
thực hóa các sơ đồ chi tiết, cho từng phân hệ, từng module, và tích hợp lại.  
Quá trình thực hiện giải pháp thông qua các mức đặc tả, thiết kế và cài đặt, sẽ  
giúp cho việc kiểm soát đƣợc dễ dàng, vì tất cả mọi khâu thực hiện đều có định nghĩa  
rõ ràng, cái vào, cái ra cụ thể, cũng nhƣ bộ tài liệu xây dựng dần, chu đáo. Phƣơng  
châm chung là mỗi công việc to hay bé phải có đặc tả yêu cầu và mô hình thực hiện, từ  
đó dễ dàng đánh giá chất lƣợng sản phẩm cuối và độ thỏa mãn với mục tiêu ban đầu.  
Nguyễn Khanh Văn – Đại học Bách Khoa Hà Nội  
16  
 
Cơ sở An toàn Thông tin – 2014  
A.5 Xung quanh chủ đề điều hành (operational issues)  
Phân tích chi phí-lợi nhuận (cost-benefit analysis)  
Đây là một chủ đề quan trọng, phải đƣợc xem xét kỹ càng khi lựa chọn giải  
pháp. Giải pháp cho ATTT đối với một hệ thống cụ thể có thể có nhiều, có thể do tổ  
chức tự xây dựng nên, hoặc do các công ty tƣ vấn khuyến nghị, mỗi giải pháp sẽ có  
những yêu-nhƣợc điểm riêng cùng với giá thành khác nhau. Đôi khi một giải pháp đơn  
giản là không làm gì mới cả, cũng là một giải pháp chấp nhận đƣợc, nêu phân tích cho  
thấy chi phí để khôi phục hệ thống (chẳng hạn nhƣ chỉ là việc quét, diệt virus và cài lại  
các phần mềm thông dụng) là rẻ tiền hơn so với các giải pháp ATTT đƣợc nêu.  
Phân tích rủi ro (risk analysis)  
Đây cũng là một vấn đề điển hình thƣờng đƣợc cân nhắc trƣớc khi đầu tƣ cho  
một giải pháp an ninh, thƣờng là tốn kém đáng kể. “Có bảo vệ hay không?”,” bảo vệ  
đến mức độ nào?” là các câu hỏi cần quyết định. Dựa vào việc phân tích rủi ro sẽ có thể  
xảy ra nêu không thực hiện biện pháp cụ thể nào đó, ngƣời ta có thể đƣa ra quyết định  
tƣơng ứng, để chọn lựa giải pháp hiệu quả nhất, vừa giảm thiểu rủi ro, vừa không gây  
chi phí lớn quá mức chịu đựng.  
Va chạm với luật và lệ  
Một số công ty đa quốc gia thƣờng gấp vấn đề này khi phát triển một chính sách  
an toàn chung trên nhiều quốc gia mà họ đặt tổ chức kinh doanh. Nhiều khi những  
chính sách bảo mật đã đƣợc hoàn thiện và chấp nhân tại chính quốc và 1 số quốc gia  
nào đó lại không thể đƣợc chấp nhận, hoặc gây sự phản đối nào đó (do các lề thói, thói  
quen không thành văn) ở môi trƣờng của một quốc gia mà công ty này bắt đầu khai phá  
thị trƣờng. Vì vậy những chính sách ATTT cũng cần phải đƣợc xem xét lại, có sự  
thƣơng lƣợng và chỉnh nắn cho phù hợp với môi trƣờng mới. Công ty Google vì đã  
không làm tốt điều này mà phải rút, không tổ chức kinh doanh tại thị trƣờng Trung  
Quốc.  
Các vấn đề xung quanh con người và tổ chức  
Quyền lực và trách nhiệm. Hai điều này phải sánh đôi cân bằng. Một ngƣời  
đƣợc trao trách nhiệm phụ trách về an ninh thông tin, thƣờng là một chuyên gia ICT có  
tuổi đời còn trẻ, cũng phải đƣợc trao một quyền lực đúng mức căn cứ theo hệ thống cấp  
bậc trong tổ chức. Thiếu quyền lực tƣơng ứng phù hợp, ngƣời dù có năng lực cao cũng  
không thể hoàn thành trách nhiệm khó khăn, đặc biệt trong một địa hạt mà sự thiếu  
hiểu biết về nó có thể có ở các cấp rất cao. Chẳng hạn nếu một vị trí lãnh đạo của công  
ty coi thƣờng không tuân thủ qui định nào đó (ví dụ nhƣ về lựa chọn mật khẩu) mà phụ  
Nguyễn Khanh Văn – Đại học Bách Khoa Hà Nội  
17  
 
Cơ sở An toàn Thông tin – 2014  
trách về an ninh đặt ra, thái độ đó sẽ lây lan ra các nhân viên khác, làm phá vỡ sự  
nghiêm minh chặt chẽ cần thiết để đảm bảo các chính sách đƣợc tuân thủ.  
Ảnh hưởng của động cơ lợi nhuận. Các công ty doanh nghiệp thƣờng bị lôi  
kéo rất mạnh bởi động cơ phải đầu tƣ cho có lãi, không đầu tƣ nhiều tiền vào dự án nào  
khi không sinh đƣợc lợi nhuận. Điều đó tạo một tình thế trớ trêu vì đầu tƣ vào ATTT sẽ  
tiêu tốn nhiều tiền mà không sinh ra lợi nhuận trực tiếp; ngƣời ta thƣờng chỉ thấm thía  
sự cần thiết của ATTT khi đã bị thiệt hại đáng kể do bị tấn công khai thác các điểm yếu  
của hệ thống thông tin.  
Quan hệ giữa con người. Các giải pháp cần có các chính sách thỏa đáng xem  
xét các mối đe dọa có thể đến từ các đối tƣợng con ngƣời khác nhau; ngƣời ta thƣờng  
tập trung quan tâm đến các khả năng tấn công từ bên ngoài mà ít chú ý đến các khả  
năng tấn công từ bên trong. Những mối đe dọa từ phía bên trong đƣơng nhiên là nguy  
hiểm hơn nhiều, và nên nhớ chúng có thể đến từ không chỉ nhân viên hiện thời của tổ  
chức, công ty mà còn từ các nhân viên cũ, đã thôi việc hoặc đã bị sa thải (loại này còn  
nguy hiểm hơn do bất mãn gây ra).  
Chế tạo quan hệ xã hội (social engineering) là một chủ đề đáng nói ở đây: kẻ tấn  
công có thể giả mạo và bịa đặt những mối quan hệ với các cá nhân có vị trí quan trọng  
của một tổ chức, và thông qua đó lừa gạt các nhân viên quản trị ICT (thƣờng còn trẻ)  
để chiếm quyền điều khiển các tài khoản quan trọng, và ăn cắp thông tin qui giá của  
công ty.  
A.6 Vòng đời an toàn thông tin  
Toàn bộ khảo sát trên cho chúng ta một bức tranh toàn thể về quá trình xây dựng  
một giải pháp an toàn thông tin. Tóm tắt lại, quá trình này gồm các bƣớc: khảo sát tìm  
hiểu các mối đe dọa xây dựng chính sách bảo vệ xây dựng đặt tả yêu cầu từ khái  
quát đến cụ thể xây dựng thiết kê mô hình cài đặt giải pháp vận hành và điều  
hành. Quá trình này có thể lặp lại nhiều lần tạo thành các chu trình, đƣợc gọi là vòng  
đời an toàn thông tin. Sự lặp lại nảy thông thƣờng đƣợc tiến hành khi có những yêu cầu  
mới nảy sinh, hoặc những sự thay đổi, đổi mới đến từ phía môi trƣờng công việc,  
nghiệp vụ. Sự thay đổi của các chức năng thuần túy nghiệp vụ có thể dẫn đến những  
mối đe doại mới, tức là làm nảy sinh việc cập nhật và hoàn thiện bộ chính sách, … tức  
là chúng ta bắt đầu một chu trình mới để cập nhật lại giải pháp ATTT.  
Nguyễn Khanh Văn – Đại học Bách Khoa Hà Nội  
18  
 
Cơ sở An toàn Thông tin – 2014  
Hình vẽ 1. Vòng đời an toàn  
B. NỀN TẢNG CƠ SỞ CỦA NGƢỜI KỸ SƢ AN TOÀN THÔNG TIN  
Ở trên chúng ta đã làm quen với một cách nhìn toàn thể vào bài toán xây dựng  
giải pháp an toàn thông tin cho một hệ thống thông tin cụ thể, nó thể hiện phần nào cái  
toàn cảnh, khó khăn và thách thức mà một ngƣời chuyên gia ATTT (chịu trách nhiệm  
cao) phải đƣơng đầu. Một kỹ sƣ trẻ mới tốt nghiệp đại học thì không bị yêu cầu phải có  
những kiến thức đủ sâu và rộng để bao quát hết, nhƣng khung nhìn trên cho thấy thực  
tế đòi hỏi những gì ở một chuyên gia ATTT, và tạo ra động lực để một sinh viên có thể  
phấn đấu trong quá trình học đại học cũng nhƣ đoạn đƣờng rèn luyện lâu dài sau đó để  
có thể trở thành một chuyên gia thực thụ.  
Giáo trình này sẽ cung cấp cho các bạn sinh viên một cơ sở ban đầu về học vấn,  
về các phƣơng pháp kỹ thuật cơ bản trong an toàn thông tin, và quan trọng nhất là một  
phƣơng pháp tƣ duy phân tích bài bản, hệ thống để từ đó các bạn có thể tự mình tiếp  
tục rèn luyện, hoàn thiện tới những trình độ cao hơn trong nghệ nghiệp chuyên môn,  
đặc biệt là khi đã có cơ hội cọ sát thực tế khi đã ra trƣờng.  
Mục này sẽ đƣa ra một cái nhìn lƣớt về các kiến thức cơ sở sẽ đƣợc trình bày  
trong toàn giáo trình. Với ngƣời kỹ sƣ, có 4 thuật ngữ và cũng là phạm trù cơ bản khi  
nói về ATTT là: điểm yếu, dễ tổn thƣơng (vulnerability) của hệ thống; mối đe dọa  
(threat); tấn công (attack); và biện pháp phòng chống (control, security measure). Ba  
phạm trù đầu phản ánh các mức độ của kiến thức của chúng ta khi khảo sát các khả  
năng một hệ thống có thể bị tấn công cho đến khi những loại tấn công thực sự đã xảy  
ra. Mục 1 của chƣơng này đã giới thiệu khá rõ nét về các phạm trù này.  
Phạm trù cuối bao gồm tất cả những phƣơng pháp có thể có để loại trừ các mối  
nguy hiểm và các tấn công thực sự. Có thể tạm liệt kê các biện pháp để điều khiển  
kiểm soát an toàn và bảo mật của một HTTT nhƣ sau:  
1. Điều khiển thông qua phần mềm:  
Các tiêu chuẩn về mã hoá, kiểm tra và bảo trì.  
Nguyễn Khanh Văn – Đại học Bách Khoa Hà Nội  
19  
 
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 226 trang Thùy Anh 26/04/2022 4640
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Cơ sở an toàn thông tin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_co_so_an_toan_thong_tin.pdf