Giáo trình Tài chính doanh nghiệp
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1. Tài chính doanh nghiệp
1.1. Hoạt động của doanh nghiệp và tài chính
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng
hàng hoá cho người tiêu dùng qua thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng là quá trình kết hợp các
yếu tố đầu vào như nhà xưởng, thiết bị, nguyên vật liệu … và sức lao động để tạo ra yếu
tố đầu ra là hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá đó để thu lợi nhuận.
Trong nền kinh tế thị trường để có các yếu tố đầu vào đòi hỏi doanh nghiệp phải có
lượng vốn tiền tệ nhất định. Với từng loại hình pháp lý tổ chức, doanh nghiệp có phương
thức thích hợp tạo lập số vốn tiền tệ ban đầu, từ số vốn tiền tệ đó doanh nghiệp mua sắm
máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu …. Sau khi sản xuất xong, doanh nghiệp thực hiện bán
hàng hoá và thu được tiền bán hàng. Với số tiền bán hàng, doanh nghiệp sử dụng để bù
đắp các khoản chi phí vật chất đã tiêu hao, trả tiền công cho người lao động, các khoản
chi phí khác, nộp thuế cho Nhà nước và phần còn lại là lợi nhuận sau thuế, doanh nghiệp
tiếp tục phân phối số lợi nhuận này. Như vậy, quá trình hoạt động của doanh nghiệp cũng
là quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ hợp thành hoạt động tài chính doanh
nghiệp. Trong quá trình đó, làm phát sinh, tạo ra sự vận động của các dòng tiền bao hàm
dòng tiền vao, dòng tiền ra gắn liền với hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh thường
xuyên hằng ngày của doanh nghiệp.
Bên trong quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ của doanh nghiệp là các quan hệ
kinh tế dưới hình thức giá trị hợp thành các quan hệ tài chính của doanh nghiệp và bao
hàm các quan hệ tài chính chủ yếu sau:
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước: quan hệ này được thể hiện
chủ yếu ở chỗ doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước như nộp các
khoản thuế, lệ phí vào ngân sách ….
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế và các tổ chức xã hội
khác.
Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác là mối quan hệ rất
đa dạng và phong phú được thể hiện trong việc thanh toán, thưởng phạt vật chất khi
doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho nhau ( bao hàm
cả các loại dịch vụ tài chính).
Ngoài quan hệ tài chính với các chủ thể kinh tế khác doanh nghiệp có thể còn có
mối quan hệ tài chính với các tổ chức xã hội khác như doanh nghiệp thực hiện tài trợ cho
các tổ chức xã hội v..v.
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với người lao động trong doanh nghiệp:
Quan hệ này được thể hiện trong việc doanh nghiệp thanh toán trả tiền công, thực hiện
thưởng phạt vật chất với người lao động trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp …
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các chủ sở hữu của doanh nghiệp: Mối
quan hệ này thể hiện trong việc đầu tư, góp vốn hay rút vốn của chủ sở hữu đối với doanh
nghiệp và trong việc phân chia lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp.
- Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: Đây là mối quan hệ thanh toán giữa
các bộ phận nội bộ doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, trong việc hình thành và sử
dụng các quỹ của doanh nghiệp.
Từ những vấn đề nêu trên ta có thể rút ra một số điểm sau:
1
- Xét về hình thức, tài chính doanh nghiệp là quỹ tiền tệ trong quá trình tạo lập,
phân phối, sử dụng và vận động gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp. Xét về bản
chất, tài chính doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị nảy sinh gắn
liền với việc tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động của
doanh nghiệp.
- Hoạt động tài chính là một mặt hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt tới các mục
tiêu của doanh nghiệp đề ra. Các hoạt động gắn liền với việc tạo lập, phân phối, sử dụng
và vận động chuyển hoá của quỹ tiền tệ thuộc hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
1.2. Nội dung tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp bao hàm các nội dung chủ yếu sau:
1.2.1. Lựa chọn và quyết định đầu tư
Triển vọng của một doanh nghiệp trong tương lai phụ thuộc rất lớn vào quyết định
đầu tư dài hạn với quy mô lớn như quyết định đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản
xuất kinh doanh, sản xuất sản phẩm mới … Để đi đến quyết định đầu tư đòi hỏi doanh
nghiệp phải xem xét cân nhắc trên nhiều mặt về kinh tế, kỹ thuật và tài chính. Trong đó,
về mặt tài chính phải xem xét các khoản chi tiêu vốn cho đầu tư và thu nhập do đầu tư
đưa lại hay nói cách khác là xem xét dòng tiền ra và dòng tiền vào liên quan đến khoản
đầu tư để đánh giá cơ hội đầu tư về mặt tài chính. Đó là quá trình hoạch định dự toán vốn
đầu tư và đánh giá hiệu quả tài chính của việc đầu tư.
1.2.2. Xác định nhu cầu vốn và tổ chức huy động vốn đáp ứng kịp thời, đủ nhu cầu
vốn cho các hoạt động của doanh nghiệp
Tất cả các hoạt động của doanh nghiệp đều đòi hỏi phải có vốn. Tài chính doanh
nghiệp phải xác định các nhu cầu vốn cần thiết cho các hoạt động của doanh nghiệp ở
trong kỳ (bao hàm vốn dài hạn và vốn ngắn hạn). Tiếp theo, phải tổ chức huy động các
nguồn vốn đáp ứng kịp thời, đầy đủ và có lợi cho các hoạt động của doanh nghiệp. Để đi
đến quyết định lựa chọn hình thức và phương pháp huy động vốn thích hợp, cần xem xét
cân nhắc trên nhiều mặt như: kết cấu nguồn vốn, những điểm lợi của từng hình thức huy
động vốn, chi phí cho việc sử dụng mỗi nguồn vốn …
1.2.3. Sử dụng có hiệu quả số vốn hiện có, quản lý chặt chẽ các khoản thu, chi và đảm
bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp huy động tối đa số vốn hiện có
doanh nghiệp vào hoạt động kinh doanh, giải phóng kịp thời số vốn ứ đọng, theo dõi chặt
chẽ và thực hiện tốt việc thanh toán, thu hồi tiền bán hàng và các khoản thu khác, đồng
thời quản lý chặt chẽ mọi khoản chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh
nghiệp. Thường xuyên tìm biện pháp thiết lập sự cân bằng giữa thu và chi tiền, đảm bảo
cho doanh nghiệp luôn có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
1.2.4. Thực hiện phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng các quỹ của doanh nghiệp
Thực hiện phân phối hợp lý lợi nhuận sau thuế cũng như trích lập và sử dụng tốt
các quỹ của doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển doanh nghiệp và cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của người lao động trong doanh nghiệp.
1.2.5. Kiểm soát thường xuyên tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Thông qua tình hình thu, chi tiền tệ hằng ngày, các báo cáo tài chính, tình hình
thực hiện các chỉ tiêu tài chính cho phép kiểm soát được tình hình hoạt động của doanh
nghiệp. Mặt khác, cần định kỳ tiến hành phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Qua phân tích, cần đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn, những điểm mạnh và điểm yếu
trong quản lý và dự báo trước tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó giúp cho các
nhà lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp kịp thời đưa ra các quyết định thích hợp điều chỉnh
hoạt động kinh doanh và tài chính.
2
1.2.5. Thực hiện kế hoạch hoá tài chính
Các hoạt động tài chính của doanh nghiệp cần được dự kiến trước thông qua việc
lập kế hoạch tài chính. Có kế hoạch tài chính tốt thì doanh nghiệp mới có thể đưa ra các
quyết định tài chính thích hợp nhằm đạt tới các mục tiêu của doanh nghiệp. Quá trình
thực hiện kế hoạch tài chính cũng là quá trình chủ động đưa ra các giải pháp hữu hiệu khi
thị trường biến động.
1.3. Vai trò của tài chính doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của doanh
nghiệp và được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
1.3.1.Tài chính doanh nghiệp huy động vốn đảm bảo cho các hoạt động của doanh
nghiệp diễn ra bình thường và liên tục
Vốn tiền tệ là tiền đề cho các hoạt động của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt
động của doanh nghiệp thường nảy sinh các nhu cấu vốn ngắn hạn và dài hạn cho hoạt
động kinh doanh thường xuyên cũng như cho đầu tư phát triển của doanh nghiệp. Việc
thiếu vốn sẽ khiến cho các hoạt động của doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc không triển
khai được. Do vậy, việc đảm bảo cho các hoạt động của doanh nghiệp được tiến hành
bình thường, liên tục phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức huy động vốn của tài chính
doanh nghiệp.
Sự thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp một phần
lớn được quyết định bởi chính sách tài trợ hay huy động vốn của doanh nghiệp.
1.3.2. Tài chính doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Vai trò này của tài chính doanh nghiệp được thể hiện ở chỗ:
Việc đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn phụ thuộc rất lớn vào việc đánh giá, lựa
chọn đầu tư từ góc độ tài chính.
Việc huy động vốn kịp thời, đầy đủ giúp cho doanh nghiệp chớp được cơ hội kinh
doanh.
Lựa chọn các hình thức và phương pháp huy động vốn thích hợp có thể giảm bớt
được chi phí sử dụng vốn góp phần rất lớn tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Sử dụng đòn bẩy kinh doanh và đặc biệt là sử dụng đòn bẩy tài chính hợp lý là yếu
tố gia tăng đáng kể tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu.
Huy động tối đa số vốn hiện có vào hoạt động kinh doanh có thể tránh được thiệt
hại do ứ đọng vốn, tăng vòng quay tài sản, giảm được số vốn vay từ đó giảm được tiền
trả lãi vay góp phần rất lớn tăng lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp.
1.3.3. Tài chính doanh nghiệp là công cụ rất hữu ích để kiểm soát tình hình kinh
doanh của doanh nghiệp
Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng là quá trình vận động,
chuyển hoá hình thái của vốn tiền tệ. Thông qua tình hình thu, chi tiền tệ hàng ngày, tình
hình thực hiện các chỉ tiêu tài chính và đặc biệt là các báo cáo tài chính có thể kiểm soát
kịp thời, tổng quát các mặt hoạt động của doanh nghiệp, từ đó phát hiện nhanh chóng
những tồn tại và những tiềm năng chưa được khai thác để đưa ra các quyết định thích hợp
điều chỉnh các hoạt động nhằm đạt tới mục tiêu đề ra của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của tài chính doanh nghiệp ngày càng trở nên
quan trọng hơn đối với hoạt động của doanh nghiệp. Bởi những lẽ sau:
- Hoạt động tài chính của doanh nghiệp liên quan và ảnh hưởng tới tất cả các hoạt
động của doanh nghiệp.
- Quy mô kinh doanh và nhu cầu vốn cho hoạt động của doanh nghiệp ngày càng
lớn. Mặt khác, thị trường tài chính càng phát triển nhanh chóng, các công cụ tài chính để
3
huy động vốn ngày càng phong phú và đa dạng. Chính vì vậy, quyết định huy động vốn,
quyết định đầu tư … ảnh hưởng ngày càng lớn đến tình hình và hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Các thông tin về tình hình tài chính là căn cứ quan trọng đối với các nhà quản lý
doanh nghiệp để kiểm soát và chỉ đạo hoạt động của doanh nghiệp.
2. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc tổ chức tài chính doanh nghiệp
Tài chính là một công cụ quan trọng để thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp.
Việc tổ chức tài chính trong các doanh nghiệp đều dựa trên những cơ sở chung nhất định.
Tuy nhiên, tài chính của các doanh nghiệp khác nhau cũng có những đặc điểm khác nhau,
do chịu sự ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Sau đây xem xét những nhân tố chủ yếu ảnh
hưởng đến việc tổ chức tài chính của doanh nghiệp.
2.1. Hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp tồn tại dưới một hình thức pháp lý nhất định về tổ chức doanh
nghiệp. Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp năm 2005, xét về hình thức pháp lý có các
loại hình doanh nghiệp chủ yếu sau:
- Doanh nghiệp tư nhân
- Công ty hợp danh
- Công ty cổ phần
- Công ty trách nhiệm hữu hạn
Ngoài bốn loại hình doanh nghiệp trên còn có hợp tác xã.
Hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến việc tổ chức tài
chính doanh nghiệp như phương thức hình thành và huy động vốn, việc chuyển nhượng
vốn, phân phối lợi nhuận và trách nhiệm của chủ sở hữu đối với khoản nợ của doanh
nghiệp v.v…
Những ảnh hưởng của hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp đến tài chính của
các loại hình doanh nghiệp thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
a. Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Như vậy, chủ doanh nghiệp là người đầu tư bằng vốn của mình và cũng có thể huy
động thêm vốn từ bên ngoài qua các hình thức đi vay. Tuy nhiên việc huy động vốn từ
bên ngoài là rất hạn hẹp và loại hình doanh nghiệp này không được phép phát hành bất
kỳ loại chứng khoán nào để huy động vốn trên thị trường. Qua đó, cho thấy nguồn vốn
của doanh nghiệp tư nhân là hạn hẹp, loại hình doanh nghiệp này thường thích hợp với
việc kinh doanh quy mô nhỏ.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh
doanh và tài chính của doanh nghiệp, có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của mình,
có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác hoặc có quyền tạm ngừng hoạt
động kinh doanh. Việc thực hiện cho thuê hay bán doanh nghiệp hoặc tạm ngừng hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp phải tuân thủ các yêu cầu của pháp luật hiện hành.
Lợi nhuận sau thuế là tài sản hoàn toàn thuộc quyền sở hữu và sử dụng của chủ
doanh nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân tự chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động. Điều đó cũng có nghĩa là về mặt tài chính,
chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp.
Đây cũng là một điều bất lợi của hình thức doanh nghiệp này.
b.Công ty hợp danh: Là doanh nghiệp, trong đó:
Phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài các thành viên hợp danh có thể có
thành viên góp vốn.
4
Thành viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề
nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về nghĩa vụ của Công ty.
Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm
vi số vốn đã góp vào công ty.
Trong công ty hợp danh, thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty, tiến hành
các hoạt động kinh doanh nhân danh công ty. Các thành viên hợp danh có quyền ngang
nhau khi quyết định các vấn đề quản lý công ty, cùng liên đới chịu trách nhiệm về các
nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn có quyền được chia lợi nhuận theo tỷ lệ được
quy định tại điều lệ công ty nhưng không được tham gia quản lý công ty và hoạt động
kinh doanh nhân danh công ty.
Ngoài vốn điều lệ, Công ty hợp danh có quyền lựa chọn hình thức huy động vốn
theo quy định của pháp luật, nhưng không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào
để huy động vốn.
Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với khoản nợ của công
ty còn thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về khoản nợ của công ty trong phạm vi số
vốn góp vào Công ty.
c. Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Theo luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam, có hai dạng công ty trách nhiệm
hữu hạn: Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên và công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên: Là doanh nghiệp trong
đó:
+ Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp.
+ Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định của pháp
luật.
+ Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên không vượt quá năm
mươi.
Thành viên của Công ty có quyền biểu quyết tương ứng với phần vốn góp.
Thành viên phải góp vốn đầy đủ và đúng hạn như đã cam kết. Ngoài phần vốn góp
của thành viên, Công ty có quyền lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn theo quy
định của pháp luật, nhưng công ty không được quyền phát hành cổ phiếu.
Trong quá trình hoạt động, theo quyết định của Hội đồng thành viên, Công ty có
thể tăng hoặc giảm vốn điều lệ theo quy định của pháp luật.
Lợi nhuận sau thuế thuộc về các thành viên của Công ty, việc phân phối lợi nhuận
do các thành viên quyết định, số lợi nhuận mỗi thành viên được hưởng tương ứng với
phần vốn góp vào công ty.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: Là doanh nghiệp do một tổ chức
hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu ( sau đây gọi là chủ sở hữu công ty); Chủ sở hữu công
ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi
số vốn điều lệ của công ty.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày
được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
+ Đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, phải xác định và cách biệt
tài sản của chủ sở hữu công ty và tài sản của Công ty: Chủ sở hữu công ty là cá nhân phải
tách biệt các chỉ tiêu của cá nhân và gia đình mình với các chỉ tiêu trên cương vị là Chủ
tịch công ty và giám đốc.
+ Công ty TNHH một thành viên không được quyền phát hành cổ phiếu.
5
d. Công ty Cổ phần: Là doanh nghiệp, trong đó:
+ Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
+ Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
+ Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ
trường hợp có quy định của pháp luật.
+ Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không
hạn chế số lượng tối đa.
Ngoài các hình thức huy động vốn thông thường, Công ty Cổ phần có thể phát
hành các loại chứng khoán ( cổ phiếu, trái phiếu) ra công chúng để huy động vốn nếu đủ
tiêu chuẩn theo luật định. Đây là một ưu thế của loại hình doanh nghiẹp này.
Các cổ đông của Công ty được tự do chuyển nhượng cổ phần cho người khác. Điều
này làm cho người đầu tư có thể dễ dàng chuyển dịch vốn đầu tư của mình.
Việc phân phối lợi nhuận sau thuế thuộc quyền quyết định của Đại hội đồng cổ
đông Công ty.
Cũng giống như Công ty trách nhiệm hữu hạn, thành viên của Công ty Cổ phần chỉ
chịu trách nhiệm ( hữu hạn) đối với các khoản nợ của Công ty trong phạm vi phần vốn đã
góp.
2.2. Đặc điểm kinh tế- kỹ thuật của ngành kinh doanh
Hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp thường được thực hiện trong một
hoặc một số ngành kinh doanh nhất định. Mỗi ngành kinh doanh có những đặc điểm kinh
tế - kỹ thuật riêng có ảnh hưởng không nhỏ tới việc tổ chức tài chính của doanh nghiệp.
- Những doanh nghiệp hoạt động trong ngành thương mại, dịch vụ thì vốn lưu
động chiếm tỷ trọng cao hơn, tốc độ chu chuyển của vốn lưu động cũng nhanh hơn so với
các ngành nông nghiệp, công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng. Ở các ngành này, vốn
cố định thường chiếm tỷ lệ cao hơn vốn lưu động, thời gian thu hồi vốn cũng chậm hơn.
- Những doanh nghiệp sản xuất ra những loại sản phẩm có chu kỳ sản xuất ngắn thì
nhu cầu vốn lưu động giữa các thời kỳ trong năm thường không có biến động lớn, doanh
nghiệp cũng thường xuyên thu được tiền bán hàng, nhờ đó có thể dễ dàng bảo đảm cân
đối giữa thu và chi bằng tiền, cũng như bảo đảm nguồn vốn cho nhu cầu kinh doanh.
Ngược lại, những doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm có chu kỳ sản xuất dài, phải
ứng ra lượng vốn lưu động lớn hơn. Những doanh nghiệp hoạt động trong những ngành
sản xuất có tính thời vụ thì nhu cầu về vốn lưu động giữa các thời kỳ trong năm chênh
lệch nhau rất lớn, giữa thu và chi bằng tiền thường có sự không ăn khớp nhau về thời
gian. Đó là điều phải tính đến trong việc tổ chức tài chính, nhằm bảo đảm vốn kịp thời,
đầy đủ cho hoạt động của doanh nghiệp cũng như đảm bảo cân đói giữa thu và chi bằng
tiền.
2.3. Môi trường kinh doanh
Doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong môi trường kinh doanh nhất định. Môi
trường kinh doanh bao gồm tất cả những điều kiện bên trong và bên ngoài ảnh hưởng tới
hoạt động của doanh nghiệp: Môi trường kinh tế - tài chính, môi trường chính trị, môi
trường luật pháp, môi trường công nghệ, môi trường văn hoá - xã hội v.v… Dưới đây
xem xét tác động của môi trường kinh tế tài chính đến hoạt động tài chính của doanh
nghiệp.
- Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế: Nếu cơ sở hạ tầng phát triển ( hệ thống giao thông
thông tin liên lạc, điện, nước…) thì sẽ giảm bớt được nhu cầu vốn đầu tư của doanh
nghiệp, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí trong kinh
doanh.
6
- Tình trạng của nền kinh tế: Một nền kinh tế đang trong quá trình tăng trưởng thì
có nhiều cơ hội cho doanh nghiệp đầu tư phát triển, từ đó đòi hỏi doanh nghiệp phải tích
cực áp dụng các biện pháp huy động vốn để đáp ứng yêu cầu đầu tư. Ngược lại, nền kinh
tế đang trong tình trạng suy thoái thì doanh nghiệp khó có thể tìm được cơ hội tốt để đầu
tư.
- Lãi suất thị trường: Lãi suất thị trường là yếu tố tác động rất lớn đến hoạt động
tài chính của doanh nghiệp. Lãi suất thị trường ảnh hưởng đến cơ hội đầu tư, đến chi phí
sử dụng vốn và cơ hội huy động vốn của doanh nghiệp. Mặt khác, lãi suất thị trường còn
ảnh hưởng gián tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi lãi suất thị
trường tăng cao, thì người ta có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn tiêu dùng, điều đó hạn chế
đến việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
- Lạm phát: Khi nền kinh tế có lạm phát ở mức độ cao, việc tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp gặp khó khăn khiến cho tình trạng tài chính của doanh nghiệp căng thẳng.
Nếu doanh nghiệp không áp dụng các biện pháp tích cực thì có thể còn bị thất thoát vốn
kinh doanh. Lạm phát cũng làm cho nhu cầu vốn kinh doanh tăng lên và tình hình tài
chính doanh nghiệp không ổn định.
- Chính sách kinh tế và tài chính của nhà nước đối với doanh nghiệp: Như các
chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách thuế, chính sách xuất khẩu, nhập khẩu, chế
độ khấu hao tài sản cố định… đây là yếu tố tác động lớn đến các vấn đề tài chính của
doanh nghiệp.
- Mức độ cạnh tranh: Nếu doanh nghiệp hoạt động trong những ngành nghề, lĩnh
vực có mức độ cạnh tranh cao đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư nhiều hơn cho việc đổi
mới thiết bị, công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm cho quảng cáo, tiếp thị và tiêu
thụ sản phẩm v.v…
- Thị trường tài chính và hệ thống các trung gian tài chính.
Hoạt động của doanh nghiệp gắn liền với thị trường tài chính, nơi mà doanh nghiệp
có thể huy động gia tăng vốn, đồng thời có thể đầu tư các khoản tài chính tạm thời nhàn
rỗi để tăng thêm mức sinh lời của vốn hoặc có thể dễ dàng hơn thực hiện đầu tư dài hạn
gián tiếp. Sự phát triển của thị trường làm đa dạng hoá các công cụ và các hình thức huy
động vốn cho doanh nghiệp, chẳng hạn như sự xuất hiện và phát triển các hình thức thuê
tài chính, sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán v.v…
Hoạt động của các Trung gian tài chính cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tài
chính của doanh nghiệp. Sự phát triển lớn mạnh của các Trung gian tài chính sẽ cung cấp
các dịch vụ tài chính ngày càng phong phú, đa dạng hơn cho các doanh nghiệp, như sự
phát triển của các ngân hàng thương mại đã làm đa dạng hoá các hình thức thanh toán
như thanh toán qua chuyển khoản, thẻ tín dụng và chuyển tiền điện tử v.v… Sự cạnh
tranh lành mạnh giữa các trung gian tài chính tạo điều kiện tốt hơn cho doanh nghiệp tiếp
cận, sử dụng nguồn vốn tín dụng với chi phí thấp hơn.
Khi xem xét tác động của môi trường kinh tế - tài chính không chỉ xem xét ở phạm
vi trong nước mà còn cần phải xem xét đánh giá môi trường kinh tế tài chính trong khu
vực và trên thế giới. Hiện nay, quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ,
những biến động lớn về kinh tế, tài chính trong khu vực và trên thế giới ảnh hưởng mau
lẹ đến nền kinh tế và hoạt động kinh doanh của một Quốc gia./.
7
CHƯƠNG II
VỐN CỐ ĐỊNH TRONG DOANH NGHIỆP
1. Tài sản cố định và vốn cố định trong doanh nghiệp.
1.1. Tài sản cố định.
1.1.1. Khái niệm tài sản cố định
Tư liệu lao động là một trong các yếu tố quan trọng không thể thiếu để tiến hành
hoạt động kinh doanh. Trong một doanh nghiệp thường có nhiều loại tư liệu lao động
khác nhau: Xét về mặt giá trị, có loại có giá trị rất lớn, có loại giá trị tương đối nhỏ; Xét
về mặt thời gian sử dụng, có loại có thời gian sử dụng rất dài, có loại thời gian sử dụng
tương đối ngắn. Để thuận tiện cho công tác quản lý, người ta chia tư liệu lao động ra
thành hai loại: Tài sản cố định và công cụ, dụng cụ nhỏ. Việc phân chia như vậy dựa vào
các tiêu chuẩn cơ bản sau:
- Tiêu chuẩn về thời gian: Có thời gian sử dụng từ một năm trở lên.
- Tiêu chuẩn về giá trị: Phải có giá trị lớn, mức giá trị cụ thể được Chính phủ quy
định phù hợp với tình hình kinh tế của từng thời kỳ.
Đây là hai tiêu chuẩn định lượng. Ngoài ra tuỳ theo từng quốc gia còn có thể đưa
ra các tiêu chuẩn định tính.
Ở Việt Nam hiện nay, theo quyết định số 206/2003/QĐ-BTC ban hành ngày 12
tháng 12 năm 2003 và thông tư 45/2013/TT-BTC ban hành ngày 25 tháng 04 năm 2013
của Bộ trưởng Bộ Tài Chính về ban hành chế độ quản lý sử dụng và trích khấu hao tài
sản cố định, thì một tư liệu lao động nếu thỏa mãn đồng thời cả bốn tiêu chuẩn dưới đây
thì được coi là tài sản cố định hữu hình:
- Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó;
- Có thời gian sử dụng trên 1 năm trở lên;
- Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin cậy và có giá trị từ
30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng) trở lên.
Trường hợp một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau, trong đó
mỗi bộ phận cấu thành có thời gian sử dụng khác nhau và nếu thiếu một bộ phận nào đó
mà cả hệ thống vẫn thực hiện được chức năng hoạt động chính của nó nhưng do yêu cầu
quản lý, sử dụng tài sản cố định đòi hỏi phải quản lý riêng từng bộ phận tài sản thì mỗi bộ
phận tài sản đó nếu cùng thoả mãn đồng thời ba tiêu chuẩn của tài sản cố định được coi là
một tài sản cố định hữu hình độc lập.
Một tư liệu lao động được xếp vào tài sản cố định nếu thoả mãn đủ tất cả các tiêu
chuẩn trên. Những tư liệu lao động không đạt đủ các tiêu chuẩn quy định trên được coi là
những công cụ, dụng cụ lao động nhỏ.
Trong điều kiện phát triển và ứng dụng nhanh chóng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
và công nghệ như hiện nay, trong một số trường hợp, doanh nghiệp phải đầu tư một
lượng giá trị lớn, kết quả đầu tư tuy không tạo ra một thực thể vật chất cụ thể, nhưng
khoản đầu tư đó phục vụ cho nhiêù chu kỳ sản xuất kinh doanh như: Quyền phát hành,
bằng phát minh sáng chế v.v… Những khoản đầu tư như vậy đã tạo ra một loại tài sản
không có hình thái vật chất và nếu thoả mãn tất cả các tiêu chuẩn quy định là tài sản cố
định thì được coi là tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp.
Như vậy, tài sản cố định của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị lớn, có thời
gian sử dụng dài cho các hoạt động của doanh nghiệp và phải thoả mãn đồng thời tất cả
các tiêu chuẩn là tài sản cố định.
8
Trong điều kiện hiện nay, việc đầu tư đổi mới tài sản cố định đặc biệt là đối với
thiết bị, công nghệ, là một trong các yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp, bởi vì:
- Tài sản cố định là yếu tố quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Nhờ đổi mới tài sản cố định mới có được năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt,
chi phí tạo ra sản phẩm thấp tạo điều kiện đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu và
do đó doanh nghiệp mới có đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Xét trên góc độ này, đầu tư
đổi mới tài sản cố định kịp thời, hợp lý trở thành vấn đề sống còn đối với mỗi doanh
nghiệp.
- Đổi mới tài sản cố định kịp thời, hợp lý còn có ý nghĩa quan trọng trong việc
giảm biên chế, giải phóng lao động thủ công nặng nhọc, đảm bảo an toàn cho người lao
động, tạo ra tư thế, tác phong của người công nhân sản xuất lớn.
- Xét trên góc độ tài chính doanh nghiệp, sự nhạy cảm trong đầu tư đổi mới tài sản
cố định là một nhân tố quan trọng để giảm chi phí như: Chi phí sửa chữa lớn tài sản cố
định, hạ thấp hao phí năng lượng, giảm chi phí biến đổi để tạo ra sản phẩm và là biện
pháp rất quan trọng để hạn chế hao mòn vô hình trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ
thuật phát triển nhanh, mạnh như hiện nay. Việc tăng cường đổi mới tài sản cố định kịp
thời, đúng hướng tạo ra lợi thế cho doanh nghiệp trong thu hút vốn đầu tư cho kinh
doanh, tạo ra triển vọng lớn lao cho doanh nghiệp chiếm lĩnh không chỉ thị trường trong
nước mà cả thị trường khu vực và Quốc tế.
Với những ý nghĩa nêu trên, việc đổi mới tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp là một đòi hỏi tất yếu khách quan mang tính quy luật trong nền kinh tế
thị trường và trong điều kiện tiến bộ về khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện nay.
1.1.2. Phân loại và kết cấu tài sản cố định
Phân loại tài sản cố định là việc phân chia toàn bộ tài sản cố định hiện có của
doanh nghiệp theo những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ cho những yêu cầu quản lý
của doanh nghiệp.
Thông thường có một số phương pháp phân loại chủ yếu sau:
a. Phân loại tài sản cố định theo hình thái biều hiện và công dụng kinh tế
Theo phương pháp này, toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp được chia làm
hai loại: Tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
* Tài sản cố định hữu hình: Là những tài sản cố định có hình thái vật chất cụ thể
do doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động kinh doanh. Thuộc loại này, căn cứ vào công
dụng kinh tế có thể chia thành các nhóm sau.
- Nhà cửa, vật kiến trúc: Là toàn bộ các công trình kiến trúc như nhà làm việc, nhà
kho, hàng rào, tháp nước, đường sá, cầu cống, cầu tầu …
- Máy móc, thiết bị: Là toàn bộ các loại máy móc, thiết bị dùng trong hoạt động
của doanh nghiệp như máy móc, thiết bị chuyên dùng, máy móc thiết bị công tác, dây
chuyền công nghệ…
- Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: Gồm các loại phương tiện vận tải đường
bộ, đường sông, đường biển … các thiết bị truyền dẫn về thông tin, điện nước, băng
truyền tải vật tư, hàng hoá…
- Thiết bị, dụng cụ quản lý: Là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công tác quản lý
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính, thiết bị điện tử, thiết bị dụng cụ
đo lường kiểm tra chất lượng, máy hút bụi, hút ẩm …
- Vườn cây lâu năm ( như cà phê, cao su, chè, cây ăn quả …), súc vật làm việc (
như trâu, bò …) hoặc súc vật cho sản phẩm ( như bò sữa, trâu sữa …).
9
- Các loại tài sản cố định khác: Là toàn bộ các tài sản cố định khác chưa liệt kê vào
năm loại trên như trang ảnh, tác phẩm nghệ thuật…
* Tài sản cố định vô hình: Là những tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác
định được giá trị, do doanh nghiệp quản lý và sử dụng trong các hoạt động sản xuất kinh
doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn tài sản
cố định vô hình.
Tài sản cố định vô hình chỉ được thừa nhận khi xác định được giá trị của nó, thể
hiện một lượng giá trị lớn đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh
doanh của doanh nghiệp. Thông thường, tài sản cố định vô hình gồm các loại sau: Quyền
sử dụng đất có thời hạn, nhãn hiệu hàng hoá, quyền phát hành, phần mềm máy vi tính,
bản quyền, bằng sáng chế, …
Phương pháp phân loại này giúp cho người quản lý thấy được cơ cấu đầu tư vào tài
sản cố định theo hình thái biểu hiện, là căn cứ để quyết định đầu tư dài hạn hoặc điều
chỉnh cơ cấu đầu tư cho phù hợp và có biện pháp quản lý phù hợp với mỗi loại tài sản cố
định.
b. Phân loại tài sản cố định theo mục đích sử dụng
Dựa theo tiêu thức này, toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp được chia làm hai
loại:
- Tài sản cố định dùng cho mục đích kinh doanh: Là những tài sản cố định đang
dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động sản xuất kinh doanh phụ
của doanh nghiệp.
- Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, anh ninh, quốc phòng: Là
những tài sản cố định không mang tính chất sản xuất do doanh nghiệp quản lý và sử dụng
cho các hoạt động phúc lợ, sự nghiệp và các hoạt động đảm bảo an ninh, quốc phòng.
Cách phân loại này giúp cho người quản lý doanh nghiệp thấy được kết cấu tài sản
cố định theo mục đích sử dụng, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và tính
khấu hao tài sản cố định có tính chất sản xuất, có biện pháp quản lý phù hợp với mỗi loại
tài sản cố định.
c. Phân loại tài sản cố định theo tình hình sử dụng.
Căn cứ vào tình hình sử dụng tài sản cố định, có thể chia toàn bộ tài sản cố định
của doanh nghiệp thành các loại sau:
- Tài sản cố định đang dùng
- Tài sản cố định chưa cần dùng
- Tài sản cố định không cần dùng và chờ thanh lý.
Dựa vào cách phân loại này người quản lý nắm được tổng quát tình hình sử dụng
tài sản cố định trong doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp sử dụng tối đa các
tài sản cố định hiện có trong doanh nghiệp, giải phóng nhanh các tài sản cố định không
cần dùng và chờ thanh lý để thu hồi vốn.
Trên đây là các cách phân loại chủ yếu. Ngoài ra còn có thể phân loại tài sản cố
định theo quyền sở hữu v.v… Mỗi cách phân loại đáp ứng những yêu cầu nhất định của
công tác quản lý. Trong thực tế doanh nghiệp có thể kết hợp nhiều phương pháp phân
loại tài sản cố định tuỳ theo yêu cầu quản lý từng thời kỳ.
1.2. Vốn cố định.
Trong nền kinh tế thị trường, để có được các tài sản cố định cần thiết cho hoạt
động kinh doanh, doanh nghiệp phải đầu tư ứng trước một lượng vốn tiền tệ nhất định. Số
vốn doanh nghiệp ứng ra để hình thành nên tài sản cố định được gọi là vốn cố định của
doanh nghiệp.
10
Là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng các tài sản cố định nên qui mô
của vốn cố đinh lớn hay nhỏ sẽ quyết định đến qui mô, tính đồng bộ của tài sản cố định,
ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ sản xuất, năng lực sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh
doanh, vốn cố định được thực hiện chu chuyển giá trị của nó. Sự chu chuyển này của vốn
cố định chịu sự chi phối rất lớn bởi đặc điểm kinh tế kỹ thuật của tài sản cố định. Có thể
khái quát những đặc điểm chủ yếu chu chuyển của vốn cố định trong quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp như sau:
- Trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh doanh, vốn cố định chu chuyển giá
trị dần dần từng phần và được thu hồi giá trị từng phần sau mỗi chu kỳ kinh doanh.
- Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh mới hoàn thành một vòng chu
chuyển.
Trong quá trình tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, tài sản cố định bị hao
mòn, giá trị của tài sản cố định chuyển dần dần từng phần vào giá trị sản phẩm. Theo đó,
vốn cố định cũng được tách thành hai phần: một phần sẽ gia nhập vào chi phí sản xuất (
dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với phần hao mòn của tài sản cố định. Phần
còn lại của vốn cố định được “cố định” trong tài sản cố định. Trong các chu kỳ sản xuất
tiếp theo, nếu như phần vốn luân chuyển được dần dần tăng lên thì phần vốn “cố định” lại
dần dần giảm đi tương ứng với mức giảm dần giá trị sử dụng của tài sản cố định. Kết thúc
sự biến thiên nghịch chiều đó cũng là lúc tài sản cố định hết thời gian sử dụng và vốn cố
định hoàn thành một vòng chu chuyển.
- Vốn cố định chỉ hoàn thành một vòng chu chuyển khi tái sản xuất được tài sản cố
định về mặt giá trị - tức là khi thu hồi đủ tiền khấu hao tài sản cố định.
Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm về vốn cố định như sau:
Vốn cố định của doanh nghiệp là bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố
định. Đặc điểm của nó là chu chuyển giá trị dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ kinh
doanh và hoàn thành một vòng chu chuyển khi tái sản xuất được tài sản cố định về mặt
giá trị.
Vốn cố định là một bộ phận quan trọng của vốn kinh doanh. Việc tăng thêm vốn cố
định trong các doanh nghiệp nói riêng và trong các ngành nói chung có tác động rất lớn
đến việc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp và nền kinh tế. Do giữ vị
trí then chốt và đặc điểm vận động của vốn cố định tuân theo tính quy luật riêng, nên việc
quản lý vốn cố định được coi là một trọng điểm của công tác quản lý tài chính doanh
nghiệp. Để quản lý sử dụng vốn cố định có hiệu quả cần nghiên cứu về khấu hao tài sản
cố định và các phương pháp khấu hao tài sản cố cố định.
2. Khấu hao tài sản cố định.
2.1. Hao mòn tài sản cố định và khấu hao tài sản cố định.
2.1.1. Hao mòn của tài sản cố định.
Trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, do chịu tác động bởi
nhiều nguyên nhân khác nhau nên tài sản cố định bị hao mòn dần.
Hao mòn tài sản cố định là sự giảm dần về giá trị sử dụng và giá trị hoặc giảm giá
trị của tài sản cố định.
Sự hao mòn của tài sản cố định được chia thành hao mòn hữu hình và hao mòn vô
hình.
- Hao mòn hữu hình: Là sự giảm dần về giá trị sử dụng và theo đó làm giảm dần
giá trị của tài sản cố định.
Sự hao mòn hữu hình tài sản cố định tỷ lệ thuận với thời gian sử dụng và cường độ
sử dụng chúng. Ngoài nguyên nhân chủ yếu trên, trong quá trình sử dụng và bảo quản, tài
11
sản cố định còn bị hao mòn do tác động của các yếu tố tự nhiên như độ ẩm, nắng, mưa.
Sự hao mòn của tài sản cố định còn chịu sự ảnh hưởng của sức bền vật liệu cấu thành tài
sản cố định …
- Hao mòn vô hình: Là sự giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản cố định.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hao mòn vô hình là do sự tiến bộ của khoa học và
công nghệ. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, các máy móc, thiết bị
không ngừng được cải tiến, đổi mới nên có tính năng, công dụng và công suất cao hơn.
Vì vậy, những máy móc, thiết bị được sản xuất trước đó trở nên lạc hậu, lỗi thời và bị
mất giá. Tình trạng mất giá này của tài sản cố định chính là sự hao mòn vô hình của tài
sản cố định. Nó không liên quan đến việc giảm sút giá trị sử dụng của tài sản cố định.
Ngày nay, sự tiến bộ của khoa học và công nghệ diễn ra rất nhanh chóng đã khiến
cho nhiều tài sản cố định bị hao mòn vô hình rất nhanh, thậm chí cả những tài sản cố định
còn mới nguyên, chưa qua sử dụng nhưng chúng đã bị mất giá vì bị hao mòn vô hình. Ví
dụ: Máy móc thiết bị trong ngành tin học, điện tử…
Hao mòn vô hình còn xuất hiện cả khi chu kỳ sống của sản phẩm bị chấm dứt dẫn
đến những tài sản cố định để chế tạo ra sản phẩm đó cũng bị mất tác dụng. Thậm chí, có
những trường hợp máy móc, thiết bị, qui trình công nghệ … mới chỉ nằm trên các dự án,
các dự thảo, phát minh đã trở nên lạc hậu trong chính thời điểm đó. Điều này cho thấy
hao mòn vô hình không chỉ diễn ra đối với tài sản cố định hữu hình mà ngay cả đối với
tài sản cố định vô hình.
Để thu hồi lại giá trị của tài sản cố định do sự hao mòn ( hao mòn hữu hình và hao
mòn vô hình) nhằm tái sản xuất tài sản cố định khi hết thời gian sử dụng cần tính chuyển
giá trị tài sản cố định vào giá trị sản phẩm tạo ra bằng việc khấu hao tài sản cố định.
2.1.2. Khấu hao tài sản cố định.
Khấu hao tài sản cố định là sự phân bổ một cách có hệ thống giá trị phải thu hồi
của tài sản cố định trong suốt thời gian sử dụng hữu ích của tài sản cố định đó.
Vì thế, khấu hao tài sản cố định là một yếu tố chi phí và được tính vào giá thành
sản phẩm. Xét về kinh tế, khấu hao tài sản cố định là một khoản chi phí sản xuất kinh
doanh trong kỳ nhưng không phải là khoản chi tiêu bằng tiền trong kỳ. Xét về mặt tài
chính, khấu hao tài sản cố định là một cách thu hồi vốn đầu tư ứng trước, vì sau khi sản
phẩm được tiêu thụ, một số tiền được trích ra từ tiền thu bán hàng tương ứng với số đã
khấu hao trong kỳ được gọi là tiền khấu hao tài sản cố định. Về nguyên lý, khi chưa tới
thời hạn tái sản xuất tài sản cố định thì số tiền khấu hao được tích luỹ lại dần dần dưới
hình thái một quỹ tiền tệ dự trữ gọi là quỹ khấu hao. Nhưng trên thực tế hiện nay, các
doanh nghiệp có quyền sử dụng linh hoạt số tiền trích khấu hao sao cho có hiệu quả và
phải hoàn trả đúng hạn để tái sản xuất giản đơn hoặc tái sản xuất mở rộng tài sản cố định
khi có nhu cầu.
Mục đích của khấu hao tài sản cố định (TSCĐ) là nhằm thu hồi vốn để tái sản xuất
ra TSCĐ. Nếu doanh nghiệp tổ chức quản lý và sử dụng tốt thì tiền khấu hao không chỉ
có tác dụng tái sản xuất giản đơn mà còn có thể tái sản xuất mở rộng tài sản cố định.
Về nguyên tắc, việc tính khấu hao TSCĐ phải dựa trên cơ sở xem xét mức độ hao
mòn của TSCĐ. Doanh nghiệp phải tính khấu hao hợp lý, đảm bảo thu hồi đủ giá trị vốn
đầu tư ban đầu vào TSCĐ.
Thực hiện khấu hao TSCĐ một cách hợp lý có ý nghĩa kinh tế lớn đối với doanh
nghiệp:
- Khấu hao hợp lý TSCĐ là một biện pháp quan trọng để thực hiện bảo toàn vốn cố
định. Thông qua thực hiện khấu hao hợp lý doanh nghiệp có thể thu hồi được đầy đủ vốn
cố định khi tài sản cố định hết thời hạn sử dụng.
12
- Khấu hao hợp lý tài sản cố định giúp cho doanh nghiệp có thể tập trung được vốn
từ tiền khấu hao để thực hiện kịp thời đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ.
- Việc khấu hao hợp lý TSCĐ là nhân tố quan trọng để xác định đúng giá thành sản
phẩm và đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
2.2. Các phương pháp tính khấu hao tài sản cố định.
Việc lựa chọn các phương pháp tính khấu hao thích hợp là biện pháp quan trọng để
bảo toàn vốn cố định và cũng là một căn cứ quan trọng để xác định thời gian hoàn vốn
đầu tư vào tài sản cố định từ các nguồn tài trợ dài hạn.
Như vậy, việc nghiên cứu lựa chọn các phương pháp khấu hao tài sản cố định là
một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý vốn cố định nói riêng và quản
lý vốn đầu tư nói chung của doanh nghiệp. Thông thường người ta sử dụng các phương
pháp khấu hao chủ yếu sau đây:
2.2.1. Phương pháp khấu hao đường thẳng (phương pháp khấu hao tuyến tính cố
định - hoặc phương pháp khấu hao bình quân).
Đây là phương pháp khấu hao bình quân theo thời gian sử dụng được sử dụng phổ
biến để tính khấu hao cho các loại tài sản cố định hữu hình có mức độ hao mòn đều qua
các năm.
a. Mức khấu hao TSCĐ
Theo phương pháp này, mức khấu hao bình quân hàng năm của TSCĐ được xác
định theo công thức sau:
Mức khấu hao hàng năm
của TSCĐ
Giá trị phải khấu hao TSCĐ
Thời hạn sử dụng hữu ích của TSCĐ
=
Giá trị phải khấu hao TSCĐ = Nguyên giá TSCĐ – Giá trị thanh lý ước tính
Nguyên giá TSCĐ là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có
TSCĐ cho tới khi đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử dụng. Nguyên giá của TSCĐ bao
gồm: Giá mua thực tế phải trả ( giá ghi trên hóa đơn trừ đi các khoản giảm giá, chiết khấu
mua hàng ( nếu có) ) và các chi phí kèm theo trước khi đưa TSCĐ vào sử dụng như chi
phí vận chuyển, bốc dỡ, lắp đặt, chạy thử lần đầu, điều chỉnh và lệ phí trước bạ, lãi tiền
vay đầu tư TSCĐ khi chưa đưa vào sử dụng và thuế không được hoàn. Đối với TSCĐ
doanh nghiệp tự xây dựng thì nguyên giá là giá trị thực tế đã chi ra để xây dựng TSCĐ.
Đối với TSCĐ vô hình, nguyên giá là tổng chi phí thực tế đã đầu tư vào tài sản đó. (Việc
xác định nguyên giá tài sản cố định được xác định như trong điều 4 của quyết định
206/2003/QĐ-BTC).
Giá trị thanh lý ước tính được xác định bằng kết quả thanh lý ước tính trừ đi chi
phí thanh lý ước tính. Để đơn giản hoá vấn đề người ta qui ước thu thanh lý bằng chi phí
thực hiện thanh lý TSCĐ nên ta có công thức tính mức khấu hao năm như sau:
NG
MKH
=
T
- Thời gian sử dụng TSCĐ (T) là thời gian sử dụng dự tính cho cả đời TSCĐ. Việc
xác định thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ dựa vào hai yếu tố chủ yếu sau:
+ Tuổi thọ kỹ thuật của TSCĐ là thời gian sử dụng tài sản cố định dựa theo thiết kế
kỹ thuật.
+ Tuổi thọ kinh tế là thời gian sử dụng tài sản cố định có tính đến sự lạc hậu, lỗi
thời của tài sản cố định do sự tiến bộ của khoa học và công nghệ.
13
Việc xác định thời gian sử dụng của tài sản cố định được thực hiện theo điều 10
(kèm theo phụ lục 1) và điều 11 của quyết định 206/203/QĐ- BTC.
b. Tỷ lệ khấu hao TSCĐ
Tỷ lệ khấu hao hàng năm của TSCĐ ( TKH) là tỷ lệ phần trăm giữa mức khấu hao (
MKH) và nguyên giá của tài sản cố định (NG)
Công thức tính:
MKH
NG
TKH
=
x 100%
Từ đó: Tỷ lệ khấu hao tháng của TSCĐ
Tkh
12
Tth
=
Trong công tác quản lý, người ta thường sử dụng các loại tỷ lệ khấu hao:
- Tỷ lệ khấu hao của từng TSCĐ
- Tỷ lệ khấu hao của từng loại TSCĐ
- Tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân của các loại TSCĐ trong doanh nghiệp.
Tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân TSCĐ của doanh nghiệp có thể xác định bằng
các cách sau:
Cách 1:
MKT
NG
TKH
=
Trong đó:
TKH : Tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân năm.
MKT : Tổng số tiền khấu hao TSCĐ trong năm.
NG : Tổng nguyên giá TSCĐ bình quân phải tính khấu hao trong năm.
Cách 2:
n
TKH
( f xT )
i KHi
i1
Trong đó:
fi: Tỷ trọng của từng loại tài sản cố định.
TKhi : Tỷ lệ khấu hao của từng loại tài sản cố định thứ i.
i = 1.n : Loại tài sản cố định.
Tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân có thể được sử dụng trong việc lập kế hoạch
khấu hao TSCĐ và trong công tác kế toán để xác định số khấu hao tài sản cố định trong
kỳ.
Ví dụ: Công ty A mua một TSCĐ (mới 100%) với giá ghi trên hóa đơn là 119 triệu
đồng, chiết khấu mua hàng là 5 triệu đồng, chi phí vận chuyển là 3 triệu đồng, chi phí lắp
đặt chạy thử là 3 triệu đồng.
Biết rằng TSCĐ có tuổi thọ kỹ thuật là 12 năm, thời gian sử dụng của TSCĐ là 10
năm (phù hợp với quy định tại phụ lục 1 ban hành kèm theo quyết định số 206/2003/QĐ-
BTC) tài sản được đưa vào sử dụng ngày 1/1/2004.
Sau 5 năm sử dụng doanh nghiệp nâng cấp tài sản cố định với tổng chi phí là 30
triệu đồng, thời gian sử dụng được đánh giá lại là 6 năm (tăng 1 năm so với thời gian sử
dụng đã đăng ký ban đầu), ngày hoàn thành đưa vào sử dụng là 1/1/2009.
Nguyên giá TSCĐ = 119 triệu – 5 triệu + 3 triệu + 3 triệu = 120 triệu đồng
14
Mức trích khấu hao trung bình hàng năm = 120 triệu : 10 năm = 12 triệu đồng/năm
Mức trích khấu hao hàng tháng = 12 triệu đồng : 12 tháng = 1triệu đồng/tháng
Hàng năm doanh nghiệp trích 12 triệu đồng chi phí trích khấu hao TSCĐ vào chi
phí kinh doanh.
Sau khi nâng cấp, nguyên giá TSCĐ = 120 triệu đồng + 30 triệu đồng = 150 triệu
đồng
Số khấu hao lũy kế đã trích = 12 triệu đồng x 5 năm = 60 triệu đồng
Giá trị cón lại trên sổ kế toán = 150 triệu đồng – 60 triệu đồng = 90 triệu đồng
Mức trích khấu hao trung bình hàng năm = 90 triệu đồng : 6 năm = 15 triệu
đồng/năm
Mức trích khấu hao trung bình hàng tháng = 15 triệu đồng : 12 tháng = 1.250.000
đồng/tháng
Từ năm 2009 trở đi, doanh nghiệp trích khấu hao vào chi phí kinh doanh mỗi tháng
1.250.000 đồng đối với tài sản cố định vừa được nâng cấp.
Trên đây là nội dung cơ bản của phương pháp khấu hao theo đường thẳng. Phương
pháp khấu hao này có các ưu điểm sau:
Việc tính toán đơn giản, dễ tính. Tổng mức khấu hao của TSCĐ được phân bổ đều
đặn vào các năm sử dụng TSCĐ nên không gây ra sự biến động quá mức khi tính chi phí
khấu hao vào giá thành sản phẩm hàng năm. Thông qua việc xem xét tỷ lệ khấu hao thực
tế tài sản cố định có thể đánh giá được tình hình khấu hao và thu hồi vốn cố định của
doanh nghiệp. Phương pháp này biết trước được thời hạn thu hồi vốn.
Tuy nhiên, phương pháp này có một số hạn chế cơ bản sau:
Phương pháp này không thật phù hợp đối với loại TSCĐ mà có mức độ hoạt động
rất không đều nhau giữa các kỳ trong năm hay giữa các năm khác nhau. Trong trường
hợp không lường được hết sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ doanh
nghiệp có thể bị mất vốn cố định.
2.2.2. Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần
Theo phương pháp này số khấu hao hàng năm của TSCĐ được xác định bằng cách
lấy giá trị còn lại của TSCĐ ở đầu năm của năm tính khấu hao nhân với một tỷ lệ khấu
hao cố định hàng năm (còn gọi là tỷ lệ khấu hao nhanh theo phương pháp số dư). Công
thức xác định như sau:
MKi = Gdi x TKD
Trong đó:
MKi : Số khấu hao TSCĐ năm thứ i
Gdi : Giá trị còn lại của TSCĐ đầu năm thứ i
TKD : Tỷ lệ khấu hao cố định hàng năm của TSCĐ
i
: Thứ tự các năm sử dụng TSCĐ ( i = 1.n )
Giá trị còn lại của TSCĐ đầu năm thứ i được xác định bằng cách lấy nguyên giá
TSCĐ trừ đi khấu hao luỹ kế đến đầu năm thứ i.
Tỷ lệ khấu hao cố định hàng năm ( còn gọi là tỷ lệ khấu hao nhanh) được xác định
bằng cách lấy tỷ lệ khấu hao theo phương pháp đường thẳng nhân với một hệ số điều
chỉnh.
TKD = TKH x Hd
Trong đó:
TKH : Tỷ lệ khấu hao theo phương pháp đường thẳng.
Hd : Hệ số điều chỉnh
Theo kinh nghiệm, các nhà kinh tế ở các nước thường sử dụng hệ số như sau:
- TSCĐ có thời hạn sử dụng 3 đến 4 năm thì hệ số là 1,5
15
- TSCĐ có thời hạn sử dụng 5 đến 6 năm thì hệ số là 2
- TSCĐ có thời hạn sử dụng trên 6 năm trở lên thì hệ số là 2,5.
Ví dụ 1: Doanh nghiệp X mua một thiết bị công tác theo giá hoá đơn là 90 triệu
đồng. Chi phí bốc dỡ, vận chuyển, lắp đặt và chạy thử lần đầu tổng cộng là 10 triệu
đồng. Tuổi thọ kỹ thuật của thiết bị được xác định là 8 năm. Tuổi thọ kinh tế của thiết bị
được xác định là 5 năm, doanh nghiệp dự kiến chọn thời gian hữu ích của tài sản cố định
phải tính khấu hao là 5 năm. Thu thanh lý là không đáng kể.
Theo phương pháp số dư giảm dần thì tỷ lệ khấu hao cố định được tính như sau:
- Tỷ lệ khấu hao TSCĐ trong điều kiện bình thường.
1
5
TKH
=
= 20%
Vậy TKD = 20% x 2 = 40%
Số khấu hao từng năm theo phương pháp này có thể được xác định theo biểu sau:
Biểu số 1: Số khấu hao tài sản cố định
theo phương pháp số dư giảm dần
Đơn vị tính: Triệu đồng
Số khấu hao Số khấu hao luỹ Giá trị còn lại
TT Cách tính khấu hao
từng năm
40
kế
40
của TSCĐ
60
1 100 x 40%
2 (100 – 40) x 40%
3 ( 100 – 64) x 40%
4 ( 100 – 78,4) x 40%
5 ( 100 – 87,04) x 40%
24
14,4
8,64
5,184
64
36
21,6
12,96
7,776
78,4
87,04
92,224
Qua phương pháp khấu hao nói trên, có thể rút ra: Số khấu hao tài sản cố định rất
lớn ở những năm đầu và giảm dần về những năm sau, nên khả năng thu hồi vốn cố định
nhanh. Tuy nhiên do kỹ thuật tính toán của phương pháp này nên vào thời điểm cuối của
năm cuối cùng vẫn còn một phần giá trị TSCĐ chưa được thu hồi hết. Để khắc phục hạn
chế này, thông thường vào những năm cuối thời hạn sử dụng TSCĐ người ta chuyển sang
phương pháp khấu hao đường thẳng. Phương pháp khấu hao như vậy được gọi là phương
pháp khấu hao theo số dư có điều chỉnh.
Như ví dụ 1 nếu cứ tiếp tục sẽ thiếu 7,776 triệu đồng so với vốn đầu tư ban đầu vào
TSCĐ. Vì vậy đến năm thứ tư người ta sẽ chuyển sang phương pháp khấu hao tuyến tính
bằng cách lấy giá trị còn lại chưa thu hồi chia cho số năm còn lại của TSCĐ và mức khấu
hao của mỗi năm thứ tư và thứ năm là: 21,6 : 2 = 10,8 triệu đồng. Như vậy cuối năm thứ
năm số khấu hao luỹ kế: 100 triệu đồng, doanh nghiệp thu hồi đủ vốn đầu tư vào thiết bị.
Phương pháp khấu hao này được áp dụng đối với các doanh nghiệp thuộc các lĩnh
vực có công nghệ đòi hỏi phải thay đổi, phát triển nhanh.
Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có ưu điểm sau:
- Giúp cho doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh ở những năm đầu. Doanh nghiệp vừa
có thể tập trung vốn nhanh từ tiền khấu hao để đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ
kịp thời vừa giảm bớt được tổn thất do hao mòn vô hình.
- Nhà nước có thể cho phép doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu hao nhanh
để tính chi phí khấu hao trong việc xác định thuế thu nhập doanh nghiệp, tạo điều kiện
cho doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh. Điều đó được coi như một biện pháp “ hoãn thuế”
cho doanh nghiệp.
Bên cạnh những ưu điểm trên, nếu doanh nghiệp thực hiện phương pháp này có
hạn chế: Giá thành sản phẩm ở những năm đầu của thời hạn khấu hao sẽ cao do phải chịu
16
chi phí khấu hao lớn, điều đó gây bất lợi cho doanh nghiệp trong cạnh tranh, việc tính
toán khá phức tạp.
2.2.3. Phương pháp khấu hao giảm dần kết hợp khấu hao bình quân
Để khắc phục nhược điểm của phương pháp khấu hao giảm dần cũng như phương
pháp khấu hao bình quân, người ta sử dụng kết hợp cả hai phương pháp trên.
Đặc điểm của phương pháp này là trong những năm đầu sử dụng tài sản cố định
(thông thường là 70% thời gian sử dụng tài sản cố định) người ta sử dụng phương pháp
khấu hao giảm dần, còn những năm cuối (30% thời gian sử dụng tài sản cố định còn lại)
thì thực hiện phương pháp khấu hao bình quân.
Từ ví dụ 1 nếu cứ tiếp tục sẽ thiếu 7,776 triệu đồng so với vốn đàu tư ban đầu vào
tài sản cố định. Vì vậy, đến năm thứ tư người ta sẽ chuyển sang phương pháp khấu hao
tuyến tính bằng cách lấy giá trị còn lại của TSCĐ chưa thu hồi chia cho số năm còn lại
của TSCĐ và mức khấu hao của năm thứ tư và thứ năm là: 21,6 : 2 = 10,8 triệu đồng.
Như vậy, cuối năm thứ năm số khấu hao lũy kế: 100 triệu đồng, doanh nghiệp thu hồi đủ
vốn đầu tư vào thiết bị.
Phương pháp khấu hao này được áp dụng đối với các doanh nghiệp thuộc các lĩnh
vực có công nghệ đòi hỏi phải thay đổi phát triển nhanh. Ta có bảng tính số tiền khấu hao
hàng năm như sau:
Đơn vị tính: Triệu đồng
Số khấu hao Số khấu hao
Giá trị còn
lại của TSCĐ
TT
Cách tính khấu hao
từng năm
40
luỹ kế
40
1
2
3
4
5
100 x 40%
60
36
21,6
10,8
-
(100 – 40) x 40%
( 100 – 64) x 40%
21,6 : 2
24
64
14,4
10,8
10,8
78,4
89,2
100
21,6 : 2
2.2.4. Phương pháp khấu hao theo sản lượng.
Phương pháp này thường áp dụng cho những TSCĐ hoạt động có tính chất mùa vụ
và là những TSCĐ trực tiếp liên quan đến việc sản xuất ra sản phẩm.
Nội dung của phương pháp này:
Số khấu hao từng năm của TSCĐ được tính bằng cách lấy sản lượng sản phẩm dự
kiến sản xuất hoàn thành trong năm nhân với mức khấu hao bình quân tính cho một đơn
vị sản phẩm.
Công thức tính:
MKsl = Qx x Mkđv
Trong đó:
MKsl : Số khấu hao năm của tài sản cố định theo phương pháp sản lượng.
Qx : Sản lượng sản phẩm sản xuất hoàn thành trong năm.
Mkđv : Mức khấu hao bình quân tính cho một đơn vị sản phẩm, được tính bằng cách
lấy giá trị phải khấu hao chia cho tổng sản lượng dự tính cả đời hoạt động của TSCĐ và
có thể được xác định:
NG
Mkđv
=
Qs
Trong đó:
NG : Nguyên giá tài sản cố định
17
Qs : Tổng sản lượng dự tính cả đời hoạt động của TSCĐ
Căn cứ vào hồ sơ kinh tế kỹ thuật của TSCĐ, doanh nghiệp xác định tổng số lượng
(khối lượng) sản phẩm sản xuất hoàn thành theo công suất thiết kế của TSCĐ, gọi tắt là
sản lượng theo công suất thiết kế.
Để tính mức khấu hao tháng của TSCĐ, có thể dùng công thức sau:
Số khấu hao
trong tháng =
của TSCĐ
Số lượng sản phẩm dự
kiến sản xuất hoàn
thành trong tháng
Mức khấu hao bình
quân tính cho một đơn
vị sản phẩm
x
Sau khi tính được số khấu hao từng tháng có thể tính số khấu hao năm bằng tổng
số khấu hao của 12 tháng trong năm.
Ví dụ 2: Công ty X mua một máy ủi đất ( mới 100%) với nguyên giá 432 triệu
đồng. Công suất thiết kế của máy ủi này là 30m3/giờ. Sản lượng theo công suất thiết kế
của máy ủi này là 2.400.000m3. Khối lượng sản phẩm dự kiến đạt được ở năm thứ nhất
của máy ủi là:
Khối lượng sản phẩm
hoàn thành (m3)
14.000
Khối lượng sản phẩm
hoàn thành (m3)
15.000
Tháng
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
15.000
18.000
16.000
16.000
14.000
16.000
16.000
18.000
14.000
18.000
Số khấu hao tháng và số khấu hao năm của máy ủi đất theo phương pháp khấu hao
theo sản lượng được xác định như sau:
Mức khấu hao bình quân
432.000.000
2.400.000
=
= 180 đồng/m3
tính cho 1 m3 đất ủi
Số khấu hao của máy ủi ở các tháng được tính ở bảng sau:
Biểu số 2: Số khấu hao các tháng trong năm thứ nhất
theo phương pháp sản lượng
Tháng Sản lượng thực tế tháng (m3) Mức khấu hao tháng (đồng)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
14.000
15.000
18.000
16.000
16.000
14.000
15.000
14.000
16.000
16.000
18.000
18.000
190.000
14.000 x 180 = 2.520.000
15.000 x 180 = 2.700.000
18.000 x 180 = 3.240.000
16.000 x 180 = 2.880.000
16.000 x 180 = 2.880.000
14.000 x 180 = 2.520.000
15.000 x 180 = 2.700.000
14.000 x 180 = 2.520.000
16.000 x 180 = 2.880.000
16.000 x 180 = 2.880.000
18.000 x 180 = 3.240.000
18.000 x 180 = 3.240.000
34.200.000
10
11
12
Cộng
18
Hoặc có thể tính bằng cách lấy sản lượng sản xuất dự kiến hoàn thành ở năm thứ
nhất nhân với mức khấu hao bình quân tính cho 1 m3 đất ủi để tính số khấu hao của máy
ủi đất ở năm thứ nhất.
MKsl1 = 190.000 x 180 = 34.200.000 đồng
Ưu điểm của phương pháp: Thích hợp với loại TSCĐ có mức hoạt động không
đều giữa các thời kỳ. Số khấu hao phù hợp hơn với mức độ hao mòn của TSCĐ.
Hạn chế của phương pháp: Việc khấu hao có thể trở nên phức tạp khi trình độ
quản lý TSCĐ còn yếu và không thực hiện nghiêm túc, chính xác việc ghi chép ban đầu.
2.3. Phạm vi tính khấu hao.
Căn cứ vào Điều 9 của Quyết định số 206/2003QĐ – BTC quy định:
1. Mọi tài sản cố định của doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động kinh doanh
đều phải trích khấu hao, mức trích khấu hao tài sản cố định được hạch toán vào chi phí
kinh doanh trong kỳ.
Doanh nghiệp không được tính và trích khấu hao đối với những tài sản cố định đã
khấu hao hết nhưng vẫn sử dụng vào hoạt động kinh doanh.
Đối với những tài sản cố định chưa khấu hao hết đã hỏng, doanh nghiệp phải xác
định nguyên nhân, quy trách nhiệm đền bù, đòi bồi thường thiệt hại… và tính vào chi phí
khác.
2. Những tài sản cố định không tham gia vào hoạt động kinh doanh thì không phải
trích khấu hao bao gồm:
- Tài sản cố định không tham gia vào hoạt động kinh doanh như: Tài sản cố định
không cần dùng, chưa cần dùng đã có quyết định của Hội đồng quản trị (đối với doanh
nghiệp có Hội đồng quản trị) hoặc cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp (đối với
doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị) cho phép doanh nghiệp được đưa vào cất giữ,
bảo quản, điều động cho doanh nghiệp khác, những tài sản cố định đang chờ quyết định
thanh lý, tính từ thời điểm tài sản cố định ngừng tham gia vào hoạt động kinh doanh,
doanh nghiệp thôi trích khấu hao theo các quy định trong chế độ này.
- Tài sản cố định thuộc dự trữ Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý hộ, giữ hộ.
- Tài sản cố định phục vụ các hoạt động phúc lợi trong doanh nghiệp như nhà trẻ,
câu lạc bộ, nhà truyền thống, nhà ăn …được đầu tư bằng quỹ phúc lợi.
- Những tài sản cố định phục vụ nhu cầu chung toàn xã hội, không phục vụ cho
hoạt động kinh doanh riêng của doanh nghiệp như: đê đập, cầu cống, đường sá, bến bãi…
mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý.
- Tài sản cố định khác không tham gia vào hoạt động kinh doanh.
3. Doanh nghiệp cho thuê tài sản cố định hoạt động phải trích khấu hao đối với tài
sản cố định cho thuê.
4. Doanh nghiệp cho thuê tài sản cố định tài chính phải trích khấu hao tài sản cố
định thuê tài chính như tài sản cố định thuộc sở hữu của doanh nghiệp theo quy định hiện
hành. Trường hợp ngay tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, doanh nghiệp đi thuê tài sản
cố định tài chính cam kết không mua tài sản thuê trong hợp đồng thuê tài chính, thì doanh
nghiệp đi thuê được trích khấu hao tài sản cố định thuê tài chính theo thời hạn thuê trong
hợp đồng.
5. Việc trích hoặc thôi trích khấu hao tài sản cố định được bắt đầu từ ngày (theo số
ngày của tháng) mua tài sản cố định tăng, giảm hoặc ngừng tham gia vào hoạt động kinh
doanh.
6. Quyền sử dụng đất lâu dài là tài sản cố định vô hình đặc biệt, doanh nghiệp ghi
nhận là tài sản cố định vô hình nhưng không được trích khấu hao.
2.4. Chế độ tính khấu hao và lập kế hoạch tính khấu hao tài sản cố định.
19
2.4.1. Chế độ tính khấu hao.
Việc phản ánh tăng hay giảm nguyên giá tài sản cố định trong kỳ được thực hiện
tại thời điểm tăng hay giảm tài sản cố định đó trong tháng.
Việc trích hoặc thôi trích khấu hao tài sản cố định (TSCĐ) được thực hiện theo
nguyên tắc tròn tháng. TSCĐ tăng, giảm, ngừng tham gia hoạt động kinh doanh ( đưa vào
cất giữ theo quy định của Nhà nước, chờ thanh lý …) trong tháng, được trích hoặc thôi
trích khấu hao từ tháng tiếp theo.
Ngoài ra theo quy định của chế độ tài chính hiện hành, các doanh nghiệp có quyền
sử dụng TSCĐ để cầm cố, thế chấp, cho thuê ( thuê hoạt động) … nhưng doanh nghiệp
vẫn phải tính và trích khấu hao đối với những TSCĐ này vào chi phí kinh doanh trong
kỳ.
2.4.2. Lập kế hoạch khấu hao tài sản cố định.
Lập kế hoạch khấu hao tài sản cố định (TSCĐ) hàng năm là một nội dung quan
trọng để quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. Thông qua
kế hoạch khấu hao TSCĐ, doanh nghiệp có thể thấy được nhu cầu tăng giảm vốn cố định
trong năm kế hoạch, khả năng nguồn tài chính để đáp ứng những nhu cầu đó. Vì thế kế
hoạch khấu hao cũng là một căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xem xét, lựa chọn các
quyết định đầu tư đổi mới TSCĐ trong tương lai.
Để phát huy vị trí và tác dụng của kế hoạch khấu hao, đòi hỏi việc lập kế hoạch
khấu hao phải chính xác, kịp thời và phải tuân thủ những trình tự nhất định.
Khi lập kế hoạch khấu hao TSCĐ, trước hết cần phải xác định tổng giá trị TSCĐ
hiện có vào đầu năm kế hoạch, cơ cấu theo nguồn hình thành giá trị đó và phạm vi tài sản
cần tính khấu hao.
Vì thông thường kế hoạch khấu hao được lập vào cuối quý 3 của năm báo cáo, do
đó để xác định chính xác tổng giá trị tài sản cố định hiện có vào đầu năm kế hoạch, cần
thiết phải dự tính tình hình tăng, giảm TSCĐ trong quý 4 của năm báo cáo.
Vấn đề tiếp theo trong trình tự lập kế hoạch khấu hao TSCĐ của mỗi doanh nghiệp
là phải căn cứ vào kế hoạch đầu tư dài hạn và tình hình thực tế của doanh nghiệp để dự
kiến tình hình tăng giảm TSCĐ trong năm kế hoạch. Bởi vì việc tăng, giảm quy mô
TSCĐ trong năm kế hoạch sẽ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự biến động về số tiền
trích khấu hao trong năm.
Trên thực tế, việc tăng giảm TSCĐ trong năm kế hoạch sẽ diễn ra không phải cùng
một thời điểm, do đó phải dùng phương pháp bình quân gia quyền để tính giá trị bình
quân TSCĐ phải trích khấu hao tăng, giảm trong kỳ. Để đơn giản, TSCĐ phải trích khấu
hao tăng thêm hoặc giảm bớt trong kỳ được tính theo nguyên tắc tròn tháng. Điều đó có
nghĩa là TSCĐ tăng, giảm, ngừng tham gia hoạt động kinh doanh ( đưa vào cất giữ chờ
thanh lý…) trong tháng sẽ được trích hoặc thôi trích khấu hao từ tháng tiếp theo.
Công thức tính giá trị bình quân TSCĐ phải tính khấu hao tăng thêm hoặc giảm
bớt trong năm kế hoạch như sau:
NGt xT
sd
NGt
12
NGg x(12Tsd )
NGg
12
Trong đó:
NGt
: Nguyên giá bình quân TSCĐ phải tính khấu hao tăng trong năm kế hoạch.
20
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tài chính doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- giao_trinh_tai_chinh_doanh_nghiep.pdf